HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI SẢN PHẨM OCOP XỨ THANH QUA HỘI CHỢ TRIỂN LÃM NÔNG NGHIỆP QUỐC TẾ LẦN THỨ 22 AGROVIET 2022

Thanh Hóa sau 4 năm triển khai, thực hiện chương trình OCOP đã góp phần làm thay đổi tập quán sản xuất của người dân khu vực nông thôn, tiếp tục tạo ra hướng đi mới trong sản xuất kinh doanh các sản phẩm truyền thống có lợi thế của Tỉnh và thúc đẩy sản xuất hàng hóa quy mô lớn, tập trung. Đến tháng 8/2022, toàn tỉnh đã có 236 sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên. Trong đó, có 1 sản phẩm 5 sao, 51 sản phẩm 4 sao và 184 sẩn phẩm 3 sao của 158 chủ thể thuộc 139 xã, phường ở 27 huyện, thị xã, thành phố. Chương trình không chỉ giúp bà con nâng cao giá trị thu nhập, giữ gìn bản sắc văn hóa mà còn góp phần thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Hiện nay, sản phẩm OCOP chưa được tiêu thụ rộng rãi trên thị trường, các chủ thể còn gặp nhiều khó khăn trong việc tìm đầu ra. Công tác xúc tiến thương mại sản phẩm OCOP của các chủ thể còn manh mún, chủ yếu qua các kênh truyền thống, chưa thu hút, tiếp cận được nhiều khách hàng tiềm năng. Trong bối cảnh nhu cầu của người tiêu dùng đối với các sản phẩm địa phương ngày càng tăng cao bởi các đặc tính “bản sắc địa phương”, “tự nhiên”, “lành mạnh” và “đáng tin cậy”, “mắt thấy tai nghe”,… thì hoạt động xúc tiến thương mại bằng hình thức trưng bày, giới thiệu sản phẩm tại hội chợ triển lãm chính là một giải pháp hiệu quả, mang ý nghĩa khuếch trương, quảng cáo cho các chủ thể, đưa sản phẩm đến gần người tiêu dùng hơn.

Nhận thấy tầm quan trọng của Hội Chợ triển Lãm Nông Nghiệp Quốc tế lần thứ 22 AgroViet 2022, Trung tâm tư vấn quy hoạch, thị trường và chiến lược phát triển nông nghiệp thuộc Viện Nông nghiệp Thanh Hóa đã phối hợp với Trung tâm xúc tiến thương mại Nông nghiệp đưa sản phẩm OCOP xứ Thanh để tham gia trưng bày tại hội chợ.

Để hoạt động xúc tiến thương mại sản phẩm OCOP qua chương trình hội chợ đạt kết quả, Trung tâm đã xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai công tác hội chợ, điển hình một sốt công việc trọng tâm như: Tư vấn các Doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh có sản phẩm OCOP từ 3 – 5 sao chuẩn bị các sản phẩm, tờ rơi, card visit để quảng cáo, giới thiệu sản phẩm; trao đổi để các chủ thể hiểu rõ tầm quan trọng việc đưa các sản phẩm OCOP tham gia triển lãm hội chợ, tại hội chợ, chủ thể có thể thực hiện các hoạt động truyền thông như giới thiệu về quy trình sản xuất sản phẩm hay chia sẻ những câu chuyện văn hóa gắn với sản phẩm tới khách hàng.

Hình ảnh tại lễ Khai mạc Hội Chợ triển Lãm Nông Nghiệp Quốc tế lần thứ 22 AgroViet 2022

Sau một thời gian chuẩn bị, Trung tâm đã đem đến hội chợ để trưng bày, giới thiệu và bán 64 chủng loại với 850 sản phẩm OCOP từ 3 – 5 sao. Trong đó nhiều sản phẩm OCOP khai thác hiệu quả vùng nguyên liệu địa phương, gắn với chỉ dẫn địa lý và nhãn hiệu tập thể như: nước mắm, moi khô Cự Nham – Quảng Nham; nấm bào ngư xám, linh chi đỏ, miến dong riềng Yên Lạc – Như Thanh; các loại trà xanh túi lọc, trà cà gai leo – Triệu Sơn; rượu Sâm Báo – Vĩnh Lộc, bánh gai – Thọ Xuân, Yến sào Xứ Thanh, … Tại Hội chợ Agroviet 2022 có quy mô gần 200 gian hàng đến từ các địa phương trên cả nước, có 29 Doanh nghiệp quốc tế đến từ các nước Úc, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, New Zealand,…

 Một số hình ảnh tại gian hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm OCOP Thanh Hóa của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa

Trong 4 ngày diễn ra hội chợ, gian hàng đã thu hút trên 1000 lượt người đến tham quan và mua sắm. Đa số khách hàng khi dùng thử sản phẩm đều đánh giá sản phẩm OCOP của Thanh Hóa không chỉ có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, mà hình thức, mẫu mã phong phú, đẹp; chất lượng đảm bảo, mỗi loại đều có hương vị đặc trưng riêng. Hội Chợ triển Lãm Nông Nghiệp Quốc tế lần thứ 22 AgroViet 2022 là cầu nối hiệu quả và là kênh xúc tiến thương mại quan trọng cho các sản phẩm có chất lượng từ khu vực kinh tế nông thôn, tạo cơ hội cho các tỉnh giao lưu, quảng bá tiềm năng kinh tế, dịch vụ của mình; mở ra cơ hội cho các nhà sản xuất, cung cấp được tiếp cận và nắm bắt thị hiếu của đông đảo người tiêu dùng, đồng thời thiết lập kênh phân phối, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định, bền vững, nâng cao hiệu quả kinh tế và đời sống người dân. Khẳng định chất lượng đặc biệt riêng có ở các sản phẩm đặc sản đặc trưng của từng vùng, miền và phát triển theo hướng bền vững, từng bước tạo niềm tin với người tiêu dùng.

Giá trị các sản phẩm nông nghiệp không ngừng gia tăng qua những lần tham gia Hội chợ, là động lực để các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp OCOP, HTX trong và ngoài tỉnh tiếp tục đầu tư phát triển nhanh về quy mô, số lượng theo hướng nâng cao giá trị sản phẩm và phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị góp phần từng bước chuyển đổi sản xuất quy mô nhỏ sang sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị khép kín gắn với vai trò của các hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp vừa và nhỏ. Góp phần thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp, phát triển theo hướng hàng hóa tập trung, xây dựng thương hiệu, gia tăng giá trị sản phẩm, nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh của các chủ thể, hướng đến xây dựng OCOP Thanh Hóa trở thành thương hiệu nổi tiếng trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế.

Thông qua sự kiện xúc tiến thương mại tại Hội Chợ triển Lãm Nông Nghiệp Quốc tế lần thứ 22 AgroViet 2022 tạo ra một sân chơi rất hiệu quả để các sản phẩm truyền thống, nông nghiệp đặc trưng của tỉnh Thanh Hóa hội nhập với các sản phẩm trong nước và khu vực; các sản phẩm OCOP Thanh Hóa được quảng bá và mở rộng thị trường tiêu thụ; từ đó không ngừng nâng cao chất lượng và mẫu mã sản phẩm và sẵn sàng tham gia vào thị trường tiêu dùng trên cả nước và Quốc tế.

Nguyễn Yến
Trạm Kết nối Cung cầu
Trung tâm TVQHTT&CLPTNN

HỘI THẢO GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP GÓP PHẦN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI HUYỆN MƯỜNG LÁT, TỈNH THANH HÓA

Ngày 04/10/2022 Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Văn phòng điều phối Nông thôn mới – Bộ Nông nghiệp và PTNT phối hợp với Sở Nông nghiệp và PTNT, Viện Nông nghiệp, UBND huyện Mường Lát tổ chức Hội thảo giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp góp phần xây dựng Nông thôn mới tại huyện Mường Lát. Đồng chí Lê Đức Giang, Phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa đến dự và chỉ đạo Hội thảo.

Tham dự Hội thảo thành phần gồm; Đại diện các cơ quan Trung ương có lãnh đạo Cục Trồng trọt, chăn nuôi, Kinh tế hợp tác và PTNT, Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, vụ Phát triển sản xuất Lâm nghiệp,Viện Khoa học lâm nghiệp – Bộ Nông nghiệp và PTNT; về phía tỉnh Thanh Hóa có đại diện các ban của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở ngành của tỉnh Thanh Hóa; lãnh đạo huyện Mường Lát, lãnh đạo các xã, bản cùng đại diện các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và phát triển nông thôn.

Tại hội thảo, các nhà khoa học, lãnh đạo các sở, ngành tỉnh Thanh Hóa và các đại biểu đã tập trung thảo luận, đánh giá về kết quả xây dựng các chương trình, đề tài, dự án khoa học và công nghệ trong lĩnh vực phát triển nông thôn, các mô hình phát triển sản xuất và xây dựng NTM tại huyện Mường Lát, giai đoạn 2011 – 2022; thực trạng sản xuất nông nghiệp, cơ chế chính sách và giải pháp thực hiện xây dựng NTM trên địa bàn huyện giai đoạn 2023 – 2025, định hướng đến năm 2030. Các đại biểu cũng thảo luận một số giải pháp phát triển lâm nghiệp; thực trạng và định hướng phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, liên kết chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp; thực trạng phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Mường Lát…

Hội thảo cũng được nghe báo cáo tham luận của của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa với chủ đề “Đánh giá tình hình sản xuất nông nghiệp huyện Mường Lát giai đoạn 2011-2022, phương hướng nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2023-2030”. Bài tham luận đã đánh giá rất sâu sắc về thực trạng về kinh tế – xã hội, môi trường và các tiến bộ khoa học – công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đã và đang áp dụng tại huyện Mường Lát; những thuận lợi, khó khăn về phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp, du lịch cộng đồng, phát triển sản phẩm OCOP, từ đó đưa ra những định hướng và giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn trên địa bàn huyện Mường Lát, giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030. Và các bài tham luận trực tiếp của Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương; Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam và UBND huyện Mường Lát.

Hội thảo được nghe bài phát biểu chỉ đạo của Đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Đức Giang, đồng chí đã bày tỏ vui mừng và gửi lời cảm ơn tới các cơ quan của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các cơ quan trung ương, các nhà khoa học và các đơn vị liên quan đã quan tâm tổ chức hội thảo ý nghĩa dành cho huyện Mường Lát. Theo đồng chí, sau 26 năm thành lập huyện, được sự quan tâm của Trung ương, tỉnh, sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền, và Nhân dân, huyện Mường Lát đã có sự phát triển đáng kể. Song do đặc thù là huyện vùng cao, trọng điểm của thiên tai, ít đất sản xuất và nhiều điều kiện không thuận lợi nên Mường Lát hiện vẫn là huyện khó khăn nhất tỉnh và là một trong những huyện nghèo nhất cả nước. Hội thảo đã gợi mở được nhiều vấn đề và định hướng phát triển cây trồng, vật nuôi, định hướng xây dựng Nông thôn mới – những nội dung hết sức có ý nghĩa cho huyện vùng cao biên giới này. Đồng chí Phó chủ tịch tỉnh cũng đề nghị Bộ NNPTNT, các cơ quan Trung ương quan tâm, hỗ trợ huyện Mường Lát xây dựng mô hình chăn nuôi tập trung; xây dựng mô hình trồng cây ăn quả ở vùng có khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp; xây dựng mô hình trồng và chế biến, tiêu cây thụ dược liệu…

Tại Hội thảo đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh đã chỉ đạo và giao nhiệm vụ cụ thể cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các sở, ngành cấp tỉnh có liên quan, phải khẩn trương tham mưu cho tỉnh xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ gạo cho Nhân dân trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng ở 11 huyện miền núi nói chung và huyện Mường Lát nói riêng; chính sách hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi cho đồng bào huyện Mường Lát; giúp huyện quy hoạch lại vùng, quy hoạch lại sản xuất; nghiên cứu xây dựng đề tài khoa học du nhập, phát triển dược liệu dưới tán rừng trên địa bàn huyện Mường Lát; bám sát kế hoạch của UBND tỉnh đã ban hành về xây dựng NTM, khẩn trương đề suất một số nhiệm vụ trong nguồn vốn sự nghiệp ưu tiên cho Mường Lát…Đặc biệt đồng chí Phó chủ tịch UBND tỉnh giao Viện Nông nghiệp Thanh Hóa khẩn trương hoàn thành đề án Phát triển rừng bền vững huyện Mường lát giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045 và tham mưu cho UBND huyện Mường Lát lập quy hoạch vùng sản xuất trồng trọt, chăn nuôi; phối với các đơn vị liên quan của Bộ NN & PTNT xây dựng Đề tài du nhập, khảo nghiệm, phát triển dược liệu trên địa bàn huyện Mường Lát; và nghiên cứu xây dựng nhiệm vụ đặt hàng công ích để du nhập, nghiên cứu, khảo nghiệm và phát triển các mô hình cây trồng, vật nuôi phù hợp, hiệu quả kinh tế cao tại Mường Lát.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Đức Giang cũng đề nghị lãnh đạo huyện Mường Lát tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiểu sâu về Nghị quyết 11 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển huyện Mường Lát đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; phổ biến rộng rãi kết quả của Hội thảo “Giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp góp phần xây dựng nông thôn mới tại huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa”; rà soát lại quy hoạch vùng mà UBND tỉnh đã phê duyệt năm 2021, đảm bảo sự liên kết, thúc đẩy nhau cùng phát triển; tích cực kêu gọi, tạo điều kiện thu hút các doanh nghiệp vào địa bàn trên tinh thần tự lực, tự cường để phát triển kinh tế xã hội huyện Mường Lát một các bền vững.

Kết luận hội thảo, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh nhấn mạnh: Cần đánh giá lại tiềm năng, lợi thế của huyện Mường Lát một cách bài bản hơn để đưa các giải pháp công nghệ phù hợp đối với sự phát triển của địa phương. Đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn, cần tập trung phát triển các giá trị bản địa, gồm cây trồng, vật nuôi, dược liệu bản địa, thậm chí là sơ chế, bảo quản bản địa, tiến tới nhân rộng các mô hình và chuyển giao công nghệ, đồng thời Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cam kết sẽ xem xét nghiêm túc các đề nghị của đại biểu về phát triển nông nghiệp, nông thôn tại huyện Mường Lát. Các ý kiến của đại biểu tham dự hội thảo sẽ được tổng hợp, báo cáo lãnh đạo Bộ NN & PTNT, các cơ quan liên quan để có những giải pháp tháo gỡ khó khăn và định hướng phát triển nông nghiệp & xây dựng nông thôn mới  cho huyện Mường Lát../.

ThS. Lê Trần Thái

                          Trung tâm Nghiên cứu Khảo nghiệm và dịch vụ vật nuôi

BÁO CÁO: Kết quả Đại hội Chi bộ trực thuộc Đảng ủy Viện Nông nghiệp, nhiệm kỳ 2022-2025

Thực hiện Kế hoạch số 44-KH/ĐUK, ngày 22 tháng 4 năm 2022 của Đảng ủy Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh về tổ chức Đại hội Chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở, nhiệm kỳ 2022 – 2025, Đảng ủy Viện Nông nghiệp Thanh Hóa báo cáo như sau:

I- Công tác chuẩn bị đại hội

1.1.  Công tác triển khai, quán triệt thực hiện các văn bản cấp trên 

Ngay sau khi có hướng dẫn của Đảng ủy Khối về tổ chức Đại hội chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở, Đảng ủy Viện Nông nghiệp (sau đây gọi tắt là Đảng ủy Viện) đã tổ chức Hội nghị triển khai, quán triệt đến các chi bộ và toàn thể đảng viên trong Đảng bộ các văn bản chỉ đạo của Đảng ủy khối; ban hành Kế hoạch số 11-KH/ĐU ngày 04/5/2022 của Đảng ủy Viện về tổ chức Đại hội Chi bộ trực thuộc Đảng bộ Viện Nông nghiệp Thanh Hóa, nhiệm kỳ 2022 – 2025.

1.2. Về công tác chỉ đạo chuẩn bị văn kiện đại hội 

Đảng ủy Viện đã lãnh đạo, chỉ đạo các chi bộ triển khai xây dựng kế hoạch tổ chức đại hội, phân công các đồng chí Đảng ủy viên phụ trách chi bộ chỉ đạo Ban chấp hành chi bộ chuẩn bị các nội dung của Đại hội theo hướng dẫn của Đảng ủy Khối, Đảng ủy Viện và phù hợp với tình hình cụ thể của chi bộ. Chi bộ giao từng đồng chí trong chi ủy, chi bộ tiến hành xây dựng đề cương chi tiết, thu thập số liệu để viết báo cáo chính trị, báo cáo kiểm điểm ban chấp hành, dự thảo nghị quyết đại hội, chương trình hành động và các nội dung liên quan khác trình đại hội. Nội dung các văn kiện trình đại hội được chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ theo đúng hướng dẫn đảm bảo mục đích, yêu cầu đề ra. Các nội dung văn kiện khác như chương trình, nội quy, quy chế làm việc, diễn văn khai mạc, bế mạc, kịch bản điều hành đại hội, lễ tân, khánh tiết được chuẩn bị nghiêm túc, đúng quy định.

Thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền về Đại hội trong toàn thể cán bộ, đảng viên nhằm tạo thành đợt sinh hoạt chính trị trong toàn Đảng bộ. Đặc biệt, về thời gian tổ chức Đại hội, đồng chí Bí thư Đảng ủy yêu cầu tất cả các chi bộ chuẩn bị tốt các điều kiện để tổ chức Đại hội, hoàn thành trong tháng 9/2022.

1.3. Về công tác chuẩn bị nhân sự đại hội

Công tác chuẩn bị nhân sự ban chấp hành chi bộ, bí thư, phó bí thư, khóa mới được tiến hành chặt chẽ, tuần tự theo các bước, từ việc rà soát quy hoạch, tổ chức lấy ý kiến giới thiệu trong chi bộ, nơi cư trú, nơi công tác, hồ sơ nhân sự, kết luận lịch sử chính trị và chính trị hiện nay đều được thực hiện chu đáo, dân chủ, đảm bảo nguyên tắc, đúng quy trình và đảm bảo số dư theo quy định trước khi trình ra đại hội.

Để triển khai hiệu quả và đảm bảo quy định, hướng dẫn của Điều lệ Đảng, Ban Thường vụ Đảng ủy Viện đã trực tiếp duyệt Chương trình Đại hội, Đề án nhân sự, Báo cáo Chính trị trình tại Đại hội của các chi bộ; phân công các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy dự và chỉ đạo Đại hội của các chi bộ.

II- Kết quả đại hội

2.1. Đại hội điểm

Được sự thống nhất của Đảng ủy Viện, đại hội chi bộ Văn phòng được tiến hành đại hội điểm ngày 29 tháng 6 năm 2022. Kết quả đại hội đã bầu ra Bí thư, 01 Phó Bí thư Chi bộ. Bầu cử bí thư, phó bí thư chi bộ dân chủ, đúng quy định, theo đúng phương án nhân sự Đại hội với số phiếu tập trung cao.

Sau Đại hội điểm, Đảng ủy đã tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành mở rộng để đánh giá, rút kinh nghiệm, thống nhất chỉ đạo tổ chức Đại hội. Về phía Đảng uỷ Khối, đồng chí Trần Thị Hồng Trang – Uỷ viên BCH, Phó Chủ nhiệm UBKT Đảng uỷ Khối đã tham dự và phát biểu ý kiến chỉ đạo. Kết luận Hội nghị, đồng chí Bí thư Đảng uỷ Viện yêu cầu tất cả các bí thư chi bộ nghiêm túc tiếp thu, rút kinh nghiệm theo ý kiến chỉ đạo của đại diện Đảng uỷ Khối để tổ chức thành công đại hội chi bộ.

2.2. Kết quả bầu cử tại đại hội

Đến thời điểm hiện nay 100% chi bộ trực thuộc Đảng bộ Viện đã tổ chức thành công đại hội.

Công tác nhân sự các chi bộ được thực hiện theo đúng quy định của cấp trên. Tại đại hội đã bầu đủ, bầu đúng số lượng theo Đề án nhân sự được Đảng ủy Viện phê duyệt. Nhìn chung, kết quả bầu cử cơ bản đạt được yêu cầu; kết quả: 01 Đại hội chỉ bầu Bí thư; 02 Đại hội bầu Bí thư, Phó Bí thư; 04 Đại hội bầu Chi uỷ; 01 07/7 Chi bộ Bí thư là Trưởng phòng, Giám đốc Trung tâm trực thuộc Viện; 01 01 Chi bộ bầu thiếu so với số lượng cần bầu; Tổng số chi ủy viên: 21 đ/c, tái cử: 15 đ/c (71,4%), tham gia lần đầu: 06 đ/c (28,6%), chi ủy viên nữ: 04 đ/c (19%)  (Chi tiết tại biểu 1A, 1B đính kèm). Tại các Đại hội cũng đã thông qua được Nghị quyết Đại hội, Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 2022 – 2025 với những chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể, sát với thực tiễn, đồng thời đưa ra được những giải pháp thực hiện mang tính thiết thực, hiệu quả.

III- Một số kinh nghiệm rút ra trong quá trình đại hội

3.1. Về công tác chuẩn bị đại hội

Phải tổ chức quán triệt kịp thời và đầy đủ yêu cầu, nội dung các chỉ thị, hướng dẫn của Đảng ủy cấp trên về tổ chức Đại hội. Tăng cường sự chỉ đạo của Đảng ủy trong quá trình thực hiện từ khâu chuẩn bị đến khâu tổ chức đại hội. Công tác chuẩn bị văn kiện trình đại hội phải chu đáo, tập trung làm rõ những nội dung căn bản, trọng tâm. Quy trình thực hiện công tác nhân sự phải thận trọng, chặt chẽ, đảm bảo dân chủ, khách quan, đúng quy trình. Trong quá trình chuẩn bị nhân sự phải căn cứ vào quy hoạch cán bộ, năng lực công tác và uy tín cá nhân; bảo đảm sau khi kiện toàn nhân sự Đại hội không phát sinh vấn đề tư tưởng trong chi bộ, Đảng bộ.

2- Về tổ chức đại hội 

Trong chương trình đại hội chính thức, Đoàn chủ tịch đại hội cần có sự phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, hợp lý cho từng thành viên, phải bám sát chương trình, kịch bản theo đúng nội dung đã được đại hội thông qua. Đối với Ban kiểm phiếu cần chọn những đại biểu có khả năng và kinh nghiệm tham gia ban kiểm phiếu, nhất là trưởng ban kiểm phiếu. Trước khi phát phiếu bầu cử, ban kiểm phiếu cần nắm chắc số lượng đại biểu có mặt tại đại hội, thực hiện việc kiểm phiếu nhanh và chính xác.

Một số hình ảnh về Đại hội các Chi bộ:

 

Đại hội Chi bộ Trung tâm NCKN&DV Vật nuôi

 

Đại hội Chi bộ Trung tâm NCKN&DV Cây trồng
Đại hội Chi bộ Trung tâm Tư vấn Quy hoạch thị trường và chiến lược phát triển Nông nghiệp

Cầm Thị Quỳnh Như
Bí thư Đoàn Viện

Hội thảo khoa học “Đánh giá khả năng phát triển sản xuất lúa gạo theo VietGAP tại Thanh Hóa”

Ngày 22/9/2022 Viện Nông nghiệp Thanh Hóa tổ chức Hội thảo Khoa học “Đánh giá khả năng phát triển sản xuất lúa gạo theo VietGAP tại Thanh Hóa” trong khuôn khổ Dự án “Xây dựng mô hình sản xuất lúa gạo an toàn bền vững theo chuỗi giá trị tại một số huyện nông thôn miền núi tỉnh Thanh Hóa” do đồng chí Lê Khắc Chiến – Phó Viện trưởng, chủ nhiệm Dự án làm chủ tọa hội nghị.

          Về dự hội thảo có đại diện các nhà khoa học (các tác giả có bài tham luận); Đại diện chi cục trồng trọt và BVTV, đại diện Sở khoa học & Công nghệ; Lãnh đạo các huyện xã tham gai mô hình; Công ty thu mua chế biến lúa gạo; Trung tâm Kiểm nghiệm chất lượng nông lâm thủy sản Thanh Hóa; đại diện các phòng ban của Viện Nông nghiệp và một số cán bộ kỹ thuật chuyên nghiên cứu lúa của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa.

          Sau khi chủ tạo hội nghị khai mạc và phát biểu đề dẫn đã có 8/9 bài tham luận được trình bày trước hội thảo gồm:

  1. Đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội thực hiện dự án “Xây dựng mô hình sản xuất lúa gạo an toàn theo chuỗi giá trị tại các huyện NTM tỉnh Thanh Hóa”
  2. Sản xuất lúa gạo theo tiêu chuẩn VietGAP trong mô hình liên kết chuỗi giá trị trong thời gian tới
  3. Định hướng sản xuất nông nghiệp bền vững, nông nghiệp hữu cơ trong thời gian tới
  4. Định hướng mô hình liên kết sản xuất, chế biến lúa an toàn chất lượng cao theo chuỗi giá trị
  5. Sản xuất lúa gạo an toàn tập trung, cơ hội và thách thức trong thời gian tới tại Thanh Hóa
  6. Định hướng chọn giống lúa chất lượng cao phục vụ sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn tại Thanh Hóa
  7. Định hướng xây dựng và chứng nhận vùng sản xuất, lúa gạo tại Thanh Hóa
  8. Đánh giá bước đầu kết quả mô hình lúa gạo hữu cơ và một số giải pháp phát triển sản xuất lúa gạo hữu cơ trong thời gian tới tại Thanh Hóa.

Hầu hết các bài tham luận tập trung vào các vấn đề mà Dự án đã đạt được và xu hướng sản xuất trong thời gian tới. Đây cũng là những vấn đề cần thiết mà Dự án tiếp tục đề xuất trong báo cáo định hướng mở rộng kết quả Dự án.

Trong phần thảo luận các đại biểu của huyện Yên Định, xã Xuân Thành, xã Thọ Lộc, huyện Thọ Xuân … cũng đưa ra các ý kiến mang tính xây dựng cao. Đa số ý kiến tập trung vào những vấn đề đã làm được của Dự án và đề xuất Viện Nông nghiệp tiếp tục nghiên cứu chọn tạo và chuyển giao các tiến bộ mới đến với bà con nông dân trong tỉnh.

Sau ½ ngày làm việc nghiêm túc, hội thảo đã đạt được những mục tiêu đề ra và thành công tốt đẹp.

Một số hình ảnh về hội thảo

ThS. Nguyễn Thị Duyên
Phó Giám đốc Trung tâm NCKN&DV Cây trồng

Nghĩ về “Bình dân học vụ số”

Bài học từ tư tưởng của Bác Hồ về “Bình dân học vụ” để xóa mù chữ trước đây, rất có thể còn có giá trị to lớn trong việc phổ cập chuyển đổi số hiện nay.

Gần 77 năm trước, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay sau đó, Người đã lãnh đạo toàn dân ta, cấp bách đối phó với ba loại giặc: Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm.

Ngày 3/9, trong buổi họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra sáu việc cấp bách, chống nạn mù chữ xếp thứ hai, chỉ sau nạn đói. Bác nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ”.

Ít ngày sau đó, Chính phủ ra liền ba sắc lệnh, lập Nha Bình dân học vụ, đề ra hạn trong 6 tháng, làng và thị trấn nào cũng phải có “ít ra là một lớp bình dân” và cưỡng bách học chữ quốc ngữ trên toàn quốc.


Bức ảnh Bác Hồ đến thăm lớp Bình dân học vụ phường Lương Yên (Hà Nội) năm 1956

Hồ Chủ tịch ra bản hiệu triệu đồng bào tham gia chống nạn mù chữ, khuyên người chưa biết chữ phải thi đua đi học, những người đã biết phải thi đua dạy học; kêu gọi mọi người, kẻ giúp của, người giúp công để tiêu diệt giặc dốt.

Hồ Chủ tịch trực tiếp khai mạc lớp tập huấn cán bộ bình dân học vụ đầu tiên, và các lớp như vậy tiếp tục được lan toả từ trên xuống dưới, đến khắp mọi địa phương khắp miền Bắc nước ta. Phương pháp vận động cách mạng là “của dân, do dân, vì dân”.

Các “lớp học i, tờ” (hai chữ trong bài đầu tiên) mở ra từ thành thị đến thôn quê, rừng núi. Giáo viên đủ các giới, hạng tuổi. Không có lương bổng, họ vẫn vừa dạy học, vừa làm cổ động học viên, xây dựng trường, tìm kiếm học phẩm… với rất nhiều cách làm, cách tuyên truyền vô cùng sáng tạo và hiệu quả (Ví dụ ở một số nơi, trạm kiểm soát chữ được lập ra, ai muốn qua phải đọc được chữ, còn không thì được mời vào lớp bên cạnh để giáo viên dạy học thử… Ở nhiều con đường, cổng chợ, cán bộ bình dân học vụ dựng một cổng có hai cửa. Một cửa cao rộng để người biết chữ đi qua, một cửa thấp hẹp để ai mù chữ phải bò qua…).

Phong trào “bình dân học vụ” đó đã làm thay đổi có tính bước ngoặt ngàn đời về mở mang dân trí cho đất nước ta: Theo thống kê đến tháng 9 năm 1945 ở nước ta, hơn 90% số dân mù chữ. Có những làng không một người nào biết chữ. Sau 5 năm (đến 30/6/1950), gần 12,2 triệu người (khoảng 30% dân số) đã biết chữ. Cuối năm 1958 thì 93,4% người dân từ 12 đến 50 tuổi đã biết đọc, biết viết. Đến năm 1965 thì hoàn thành xóa nạn mù chữ, đưa dân tộc ta thoát vòng tăm tối ngàn đời. Đó là một thành tích vang dội trên thế giới chưa nước nào vừa thoát ách thực dân cũ mà có thể làm được.Việc sớm xóa nạn mù chữ thành công là yếu tố vô cùng quan trọng để diệt giặc dốt, giặc đói, giặc ngoại xâm, đưa đất nước ta hoàn thành sự nghiệp thống nhất và đổi mới phát triển như ngày nay.


Nông dân một nhà vườn tại Hải Dương được hướng dẫn cách đưa nông sản lên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Trọng Đạt

Hôm nay, đất nước ta lại đứng trước những thời cơ và thách thức mới do ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên toàn thế giới. Ba cuộc cách mạng công nghiệp lần trước, vì nhiều lý do, chúng ta đã lỡ nhịp nên không tận dụng được nhiều lợi thế, thậm chí còn là nước phải chịu nhiều thiệt thòi từ hệ quả tiêu cực của nó làm nước ta chậm phát triển.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra “một cuộc xâm lăng mới”, nước nào cũng có thể bị “xâm lăng”, bị “đô hộ” qua “lãnh thổ ảo” của mình. Nhưng đồng thời, nước nào cũng có thể bứt phá cực nhanh nếu tận dụng tốt những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại. Điều quyết định không còn là tiền vốn, công nghệ hay vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên hay lao động giá rẻ… như trước nữa, mà là trí tuệ, là tư duy của con người. Lần này Việt Nam lỡ thời cơ, thì nguy cơ tụt hậu sẽ không tránh khỏi, đất nước sẽ không thể hùng cường.


Tập huấn chuyển đổi số cho cán bộ ở Thái Nguyên. Ảnh: Ngọc Minh

Để tận dụng được thành tựu văn minh của nhân loại trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cho đất nước phát triển nhanh và bền vững, dứt khoát phải khẩn trương thực hiện tốt một phương thức phát triển hoàn toàn mới mà các nước phát triển nhất thế giới đang thực hiện ráo riết, chủ yếu dựa trên trí tuệ của con người. Đó là “chuyển đổi số”.

Nắm bắt xu hướng đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030, trong đó nêu rõ: “Thực hiện quyết liệt chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số, kích cầu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng quy mô lớn, thúc đẩy tiêu dùng nội địa, giải quyết việc làm”. Theo đó, việc chuyển đổi số phải được diễn ra toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, y tế, quốc phòng – an ninh và đối ngoại.

Cụ thể hóa Đường lối Đại hội XIII của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó xác định một quan điểm rất cốt lõi, để đảm bảo thành công của Chương trình, đó là: “Người dân là trung tâm của chuyển đổi số”. Chương trình cũng xác định một nhiệm vụ hàng đầu là “chuyển đổi nhận thức” cho cán bộ lãnh đạo các cấp cho đến mọi tầng lớp nhân dân.

Chuyển đổi số như một “cuộc cách mạng” về cả thể chế quản lý đất nước trên tất cả mọi lĩnh vực và mọi địa phương, về cả phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh để có năng suất và hiệu quả cao vượt trội, về cả những thói quen ứng xử mới của người với người, để tồn tại và phát triển, hội nhập trong một thế giới mở, biến động hết sức nhanh và vô cùng phức tạp.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Bài học thành công từ “bình dân học vụ” với tư tưởng “của dân, do dân, vì dân” của Hồ Chủ tịch vẫn còn giá trị đến ngày nay.

Chuyển đổi số không thể thành công nếu không được các cấp chính quyền và toàn dân hưởng ứng. Do vậy mà “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đã đề ra nhiệm vụ , giải pháp số 1 để tạo nền móng chuyển đổi số là CHUYỂN ĐỔI NHẬN THỨC.

Chưa có số liệu thống kê, song chắc chắn còn một tỷ lệ rất lớn trong nhân dân, trong đó có nhiều cán bộ các cơ quan nhà nước, các chủ doanh nghiệp… còn chưa được “xóa mù” về chuyển đổi số, chưa có trình độ “i tờ” về chuyển đổi số. Người dân không thấy được tác dụng của chuyển đổi số với cuộc sống của mình, cũng không biết làm thế nào để chuyển đổi số với chính cuộc sống mình thì việc chuyển đổi số quốc gia hay việc xây dựng xã hội số, nền kinh tế số… khó mà thành công được. Và việc “xóa mù về chuyển đổi số cho toàn dân” như vậy, cũng không chỉ do các cơ quan nhà nước làm mà được, mà phải phát huy được mọi nguồn lực của mọi tầng lớp nhân dân. Một lần nữa, bài học “của dân, do dân, vì dân” trong thời “bình dân học vụ” lại cho chúng ta nhiều giá trị mới.

“Bình dân học vụ số”, với mục đích nhanh chóng phổ cập tri thức cơ bản về chuyển đổi số cho toàn dân, cho cả cán bộ chính quyền, giống như “xóa mù chữ” trước đây, và lực lượng để làm việc này cũng là từ tất cả mọi thành phần trong xã hội, chứ không phải là công việc chỉ của các cơ quan nhà nước. Phải biến tri thức cơ bản của chuyển đổi số thành “i, tờ” trong thời đại mới; phải biết cách “bình dân hóa” phương thức truyền bá những ‘i, tờ mới” này để người dân vừa là người học, vừa là người dạy, vừa truyền bá vừa hưởng lợi ích ngay trong quá trình đó. Cơ quan chức năng nhà nước là người khởi xướng, tổ chức tập huấn các hình mẫu để từ đó người dân sẽ tự “nhân bản” chúng.

Điểm khác biệt cơ bản của “bình dân học vụ số” với “bình dân học vụ” là được thực hiện không chỉ với lòng yêu nước, “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” như thời mới lập quốc. Vẫn là việc “của dân, do dân, vì dân” nhưng trong cơ chế thị trường, trong hoàn cảnh nhà nhà thi đua giảm nghèo, làm giàu thì “dân làm” phải liền ngay với “dân hưởng” mới có tính khả thi.

Không thể yêu cầu người ta “làm không công vì yêu nước” trong thời đại kinh tế thị trường. Đây là khó khăn tưởng chừng làm cho “bình dân học vụ số” không thể thực hiện được. Nhưng “cái khó cũng ló cái khôn”.

Trong thời đại số, lại có những nguồn lực mới mà thời đại trước không có: Những cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đi đầu trong đào tạo, phổ biến kiến thức chuyển đổi số cho người dân cũng sẽ quảng bá được hình ảnh và dịch vụ của chính mình, tạo ra các “khách hàng tiềm tàng” để tổ chức phát triển thị trường sản phẩm dịch vụ của mình trong tương lai. Bản thân những người dân tham dự vào quá trình “bình dân học vụ” giai đoạn đầu lại trở thành “người dạy i, tờ số” và sẽ sớm thấy được lợi ích ngay trong quá trình “vừa học vừa dạy” này.

Thực tế là có không ít doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh nền tảng số đang chờ được Nhà nước cho phép để lao vào làm “phổ cập số hóa” để “cống hiến cho xã hội” nhưng lại cũng là vì chính lợi ích của doanh nghiệp trong tương lai khi số công dân được “xóa mù chuyển đổi số” tăng lên nhanh chóng. Và hiện cũng đã có những doanh nghiệp tiên phong “đào tạo miễn phí cho lao động tương lai” vì họ đã nhận thấy ích lợi của xu hướng “đào tạo miễn phí mà vẫn có lợi” này. Đây là những thuận lợi của thời đại mới đem lại (mà “bình dân học vụ” ngày xưa không có được), tạo ra điều kiện và nguồn lực mới.

Với “bình dân học vụ số”, Chính phủ không phải là người làm. Chính phủ chỉ “khởi xướng” “kiến tạo”, “đầu tư mồi”, “tập huấn mẫu”, “tuyên truyền”, “định hướng”, “ủng hộ và chia sẻ” với doanh nghiệp trong giai đoạn đầu. Sau đó thì “thông tin là tiền bạc”, ai giúp được nhiều người chuyển đổi số thành công chính sẽ là người thành công hơn trong cuộc sống vì sẽ là người “có cơ hội bán được nhiều hàng” hơn.  “Dân làm và dân hưởng” thôi.

Người dân là chủ thể của chuyển đổi số. Chuyển đổi số chính là việc “của dân”.

Người dân có thể tự nguyện tham gia vào quá trình đào tạo và học tập, nâng cao nhận thức và có tri thức ứng dụng thành quả chuyển đổi số vào cuộc sống của mình, làm lợi cho cộng đồng và cho chính mình. Người dân thấy có lợi cho chính mình mà làm, nên sẽ tự giác và nhiệt tình, “bình dân học vụ số” thành công được chính là “do dân”.

Cơ quan chức năng nhà nước, những người “ăn cơm từ tiền thuế của dân” thì phải “vì dân” mà làm thôi. Vạn sự khởi đầu nan, Nhà nước là “bà đỡ cho phương thức phát triển mới ra đời”, rất nên chọn một vài địa phương để “làm điểm”, tập huấn mẫu “bình dân học vụ số”, chọn doanh nghiệp nền tảng số có tầm nhìn để đi đầu trong việc cung cấp học liệu và “giáo viên bình dân” ban đầu công cuộc “bình dân học vụ số” này.

Tháng năm nhớ Bác. Và tư tưởng của Người về “của dân, do dân, vì dân” khi thực hiện “bình dân học vụ” vẫn cho ta những bài học quý cho mục tiêu Việt Nam hùng cường hôm nay.

Nguồn: vietnamnet.vn

Trần Anh Đức, Văn phòng Viện (ST)

Quyết định Phê duyệt Điều khoản tham chiếu (TOR) nhiệm vụ xây dựng đề án “Sưu tầm, bảo tồn và phát triển nguồn gen một số loài cây trồng, vật nuôi, thủy sản có giá trị trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, đến năm 2030”

Viện Nông nghiệp Thanh Hóa xin công bố:

Quyết định Phê duyệt Điều khoản tham chiếu (TOR) nhiệm vụ xây dựng đề án “Sưu tầm, bảo tồn và phát triển nguồn gen một số loài cây trồng, vật nuôi, thủy sản có giá trị trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, đến năm 2030

Dưới đây là toàn văn Quyết định:

 

Giải pháp kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm trong mùa nắng nóng

Những ngày qua thời tiết khí hậu có biến đổi bất thường, thường xuất hiện các đợt nắng nóng kéo dài từ 7-10 ngày, nhiệt độ từ 37-39 độ C, có nơi trên 40 độ C; Sau những đợt nắng nóng thường xuất hiện có mưa, giông bão, thời tiết biến đổi rất khó lường. Với thời tiết này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ đàn gia súc gia cầm, nguy cơ bùng phát dịch bệnh là rất cao.

Để chủ động phòng chống dịch bệnh và nâng cao sức khoẻ cho đàn vật nuôi, người chăn nuôi cần thực hiện tốt một số giải pháp kỹ thuật như sau:

Nhập giống và vận chuyển gia súc, gia cầm

Tốt nhất nhập giống ở những cơ sở sản xuất giống có uy tín, đủ điều kiện, không nhập ở những nơi đang có dịch bệnh. Cần kiểm tra kỹ về chất lượng giống cũng như việc tiêm vắc xin phòng bệnh.

Việc vận chuyển giống về địa phương cần thực hiện tốt quy trình kiểm dịch vận chuyển theo quy định. Khi vận chuyển gia súc gia cầm trong những ngày nắng nóng nên thực hiện vào buổi sáng sớm hoặc chiều mát. Nếu vận chuyển đường dài chú ý cho gia súc gia cầm nghỉ ngơi hợp lý, vào các thời điểm buổi trưa nên để gia súc gia cầm vào nơi mát, bổ sung thức ăn, nước uống cũng như kiểm tra sức khỏe con vật trong quá trình vận chuyển. Nên giãn mật độ nhốt gia súc gia cầm trên phương tiện vận chuyển, đồng thời che chắn làm mát cho gia súc gia cầm ngay trên phương tiện vận chuyển như để cành cây nhiều lá trên xe, có đệm lót tốt, có bạt che ánh nắng mặt trời xung quanh phương tiện…

Chuồng trại và hệ thống làm mát

Hàng ngày phải vệ sinh sạch sẽ khu vực chuồng nuôi, khu chăn thả, sân vận động với trâu bò. Khơi thông cống rãnh, phát quang bụi rậm để tránh ruồi muỗi, côn trùng, không để nước đọng và định kỳ phun thuốc sát trùng để hạn chế, ngăn chặn mầm bệnh.

Chủ động che chắn chuồng trại để đảm bảo có độ phủ mát tốt. Thường xuyên kiểm tra hệ thống làm mát trong chuồng nuôi gia súc gia cầm. Kịp thời cải tạo, sửa chữa, nâng cấp đảm bảo cho các hệ thống làm mát sử dụng tốt. Với các trại chăn nuôi có chuồng kín cần kiểm tra và thực hiện nghiêm việc trực kỹ thuật, đề phòng mất điện hoặc các hệ thống làm mát trong chuồng nuôi bị trục trặc, lỗi kỹ thuật, không đảm bảo vận hành. Nên lắp đặt các hệ thống báo động tự động để kịp thời giải quyết, khắc phục các sự cố về kỹ thuật xảy ra. Với chuồng nuôi bò sữa có hệ thống làm mát trong chuồng nuôi (kể cả hệ thống trong chuồng và hệ thống trên mái). Đảm bảo vận hành tốt hệ thống chống nóng tự động trong chuồng nuôi cũng như trên mái. Thường xuyên kiểm tra nguồn nước làm mát, hệ thống quạt điện để bò sữa luôn được mát.

Chế độ dinh dưỡng cho gia súc gia cầm

Những ngày nắng nóng con vật thường có nhiều biến đổi trong quá trình hấp thu, trao đổi chất, việc ăn uống của con vật có nhiều thay đổi không bình thường vì vậy cần tăng cường chế độ dinh dưỡng và bổ sung các loại khoáng (Premix khoáng, Vitamin để nâng cao sức đề kháng cho con vật.

Đảm bảo nghiêm ngặt chế độ nước uống đủ và sạch cho gia súc gia cầm, những ngày nắng nóng nhu cầu cần nước trong cơ thể con vật là rất lớn nên tốt nhất là lắp đặt hệ thống nước uống tự động cho con vật trong chuồng nuôi. Hàng ngày kiểm tra thường xuyên lượng nước cung cấp và vệ sinh nguồn nước. Với trâu, bò, bò sữa cần tăng cường các loại thức ăn thô xanh, một số thức ăn ủ chua đảm bảo cho con vật đủ no và tăng cường quá trình trao đổi chất thông qua tập tính nhai lại ở trâu bò.

Mật độ nuôi

Những ngày nắng nóng cần giãn mật độ nuôi nhốt trong chuồng nuôi đối với gia súc gia cầm để tạo sự thông thoáng và cân bằng dưỡng khí trong chuồng nuôi. Lưu ý trong chăn nuôi gia cầm, điều này rất quan trọng nhằm hạn chế dịch bệnh và các bệnh về hô hấp (mật độ trung bình chăn nuôi gà thịt tốt nhất là 6 – 8 con/m2, với trâu bò đảm bảo 4 – 6 m2/con).

Khi vận chuyển gia súc, gia cầm cũng lưu ý giảm mật độ trên xe so với ngày bình thường để tạo độ thông thoáng trên phương tiện vận chuyển.

Tiêm phòng và xử lý gia súc, gia cầm có biểu hiện không bình thường

Cần kiểm tra việc tiêm phòng cho đàn gia súc gia cầm, trường hợp đến kỳ tiêm phòng phải tiêm phòng ngay để chủ động tạo miễn dịch cho đàn gia súc, gia cầm. Khi tiêm phòng chú ý kiểm tra đàn gia súc, gia cầm khoẻ mạnh mới tiêm phòng. Thời điểm tiêm phòng tốt nhất là vào sáng sớm và chiều mát để đảm bảo chất lượng vắc xin, tránh phản ứng, tạo miễn dịch tốt cho con vật khi tiêm phòng.

Những ngày nắng nóng cần tăng cường hơn việc kiểm tra theo dõi đàn gia súc, gia cầm. Trường hợp thấy gia súc, gia cầm có những biểu hiện không bình thường cần tách đàn nhốt riêng để kiểm tra, theo dõi và điều trị. Nếu số lượng nhỏ (một vài con) không thấy biểu hiện lây lan thì áp dụng việc cho uống thuốc trợ sức trợ lực, tạo sự thoáng mát cho con vật, khi trở lại bình thường, con vật khoẻ mạnh cho nhập đàn. Trường hợp thấy gia súc gia cầm có biểu hiện triệu chứng nặng (khó thở, ho, sốt, ủ rũ, đi lại không bình thường…) có biểu hiện lây lan, cần báo ngay cán bộ thú y cơ sở để có biện pháp can thiệp kịp thời.

Nguồn khuyennongvn.gov.vn

ST. Trần Anh Đức
Văn phòng Viện

Các Quyết định về việc công bố công khai Dự toán và Quyết toán NSNN của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa năm 2021

Viện Nông nghiệp Thanh Hóa công bố Các Quyết định về việc công bố công khai Dự toán và Quyết toán NSNN của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa năm 2021

STT Nội dung Quyết định Tải về
1 Quyết định số 264 ngày 27/6/2022 của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa Về việc công bố công khai quyết toán NSNN năm 2021 của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa. Tải về
2 Quyết định số 35 ngày 10/01/2022 của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa Về việc công bố công khai dự toán NSNN năm 2021 của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa. Tải về

Hội thảo khoa học góp ý Đề án “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Viện Nông nghiệp Thanh Hóa giai đoạn 2023-2030”

Sáng 21-6, Viện Nông nghiệp Thanh Hóa phối hợp với Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa đã tổ chức hội thảo khoa học góp ý Đề án “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Viện Nông nghiệp Thanh Hóa giai đoạn 2023-2030”. Dự hội thảo có đại diện lãnh đạo các sở: Tài chính; Khoa học và Công nghệ; Nội vụ; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Viện trưởng Viện Nông nghiệp Thanh Hóa Nguyễn Đình Hải phát biểu tại hội thảo.

Dự thảo đề án “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Viện Nông nghiệp Thanh Hóa giai đoạn 2023-2030” do Viện Nông nghiệp Thanh Hóa xây dựng với mục tiêu thu hút, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, nhất là nhân lực có trình độ chuyên môn sâu, có kiến thức, kỹ năng nghiên cứu, tiếp thu, làm chủ, phát triển công nghệ cao, tiên tiến, hiện đại, hình thành đội ngũ nhân lực trình độ cao, có năng lực toàn diện để giải quyết được các vấn đề quan trọng của ngành, lĩnh vực đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ.

Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa Nguyễn Văn Phát phát biểu tại hội thảo.
Đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn góp ý vào dự thảo Đề án.
Thành viên Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa góp ý vào dự thảo Đề án.

Theo dự thảo Đề án, giai đoạn 2023-2030 Viện sẽ thu hút và đào tạo 45 nhân lực chất lượng cao; bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp theo yêu cầu vị trí việc làm cho 45 người; bồi dưỡng ngoại ngữ để đạt trình độ Tiếng Anh bậc 4 trở lên cho 25 người.

Đề án xây dựng 4 nhóm giải pháp, gồm: Cải thiện điều kiện làm việc, tạo môi trường, động lực nghiên cứu. Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu, liên doanh, liên kết, tạo thêm việc làm mới để thu hút lao động. Tăng cường đào tạo nhân lực chất lượng cao. Xây dựng, ban hành chính sách thu hút, đào tạo nhân lực đặc thù cho Viện.

Tại hội thảo, các đại biểu đã thảo luận, góp ý nhằm hoàn thiện dự thảo Đề án. Các góp ý tập trung vào một số vấn đề như: Sửa tên Đề án; chú trọng đến các giải pháp đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ. Quan tâm đến vấn đề đào tạo nhân lực mang tính chất đặc thù…

Nguồn: Báo Thanh Hóa

(ST)Trần Anh Đức
Chuyên viên, Văn phòng Viện

Bài tham luận: BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ CHO CÁC SẢN PHẨM NGHIÊN CỨU TẠI VIỆN NÔNG NGHIỆP THANH HÓA – MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG THỜI GIAN TỚI

Trong thời đại phát triển của nền kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề Sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của nhân loại.

Con người là nguồn lực của mọi nguồn lực và trí tuệ là bộ phận sáng giá nhất giúp phát huy năng lực con người, hình thành tiềm lực phát triển của mỗi địa phương, quốc gia. Để hình thành nên những tài sản trí tuệ đòi hỏi sự đầu tư rất nhiều về thời gian, công sức và tài chính. Nhưng sau khi hoàn thành có thể lợi ích thu về lại không tương xứng với những gì đã bỏ ra hoặc có thể xuất hiện những hành vi xâm hại đến sản phẩm trí tuệ. Điều này không những ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích vật chất, tinh thần, giảm đi động lực sáng tạo của chủ thể sáng tạo mà còn ảnh hưởng đến tiến trình hội nhập phat triển kinh tế – xã hội của quốc gia.

Một trong những thành quả của sự sáng tạo trí tuệ chính là việc tạo ra sản phẩm mới. Việc bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan đối với sản phẩm là hoạt động nhằm tôn vinh, bảo vệ thành quả của các tổ chức cá nhân đã lao động sáng tạo, cống hiến, đóng góp cho lợi ích công chúng và sự tiến bộ xã hội, từ đó thúc đẩy hoạt động sáng tạo. Bảỏ hộ quyền tác giả và quyền liên quan đến sản phẩm nhằm hướng tới một cộng đồng tôn trọng “tài sản trí tuệ” và chỉ có ý nghĩa nếu người sáng tạo thực sự được tôn trọng các quyền về mặt tinh thần, quyền về mặt kinh tế được hưởng các lợi ích được khai thác từ tác phẩm của mình.

Việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ cho những sản phẩm đặc sản nhằm nghiên cứu đánh giá chất lượng và thiết lập cơ chế bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm đảm bảo việc kiểm soát chất lượng và xúc tiến thương mại, nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng sản phẩm. Đồng thời nâng cao giá trị kinh tế sản phẩm. Sản phẩm sẽ được cơ quan thẩm quyền gắn nhãn hiệu, được bảo hộ và sử dụng trên thực tế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà sản xuất, chế biến, kinh doanh sản phẩm.

Mặc dù đăng kí quyền sở hữu trí tuệ đã được quy định cụ thể trong luật. Tuy nhiên tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam vẫn diễn ra ngày càng nhiều, đặc biệt là tình trạng vi phạm về hành vi làm hàng giả, hàng nhái. Đăng kí bảo hộ nhãn hiệu là cơ sở giúp các doanh nghiệp có thể bảo vệ và nâng cao thương hiệu hàng hóa mà mình tạo dựng được. Tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ là một trong những điều mà chúng ta không nên bỏ qua. Đây là một trong những yếu tố giúp tăng giá trị cho hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp, làm nên thương hiệu riêng cho từng loại sản phẩm được tạo ra.

Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan đến sản phẩm, Viện Nông nghiệp Thanh Hóa đang chú trọng và quan tâm sâu sắc đến vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm của Viện.

Là đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ công lập, trực thuộc UBND tỉnh, ngoài các nhiệm vụ về thực hiện chức năng nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ, tư vấn về chiến lược phát triển và cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, Viện Nông nghiệp Thanh Hóa còn có nhiệm vụ thực hiện các hoạt động dịch vụ, sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu các sản phẩm và công nghệ lĩnh vực nông, lâm nghiệp, chăn nuôi và thủy sản.

Từ khi thành lập đến nay, Viện Nông nghiệp đã kế thừa hàng trăm lượt những công trình nghiên cứu từ các nhiệm vụ đặc thù, các nhiệm vụ khoa học công nghệ từ 06 đơn vị thuộc sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thanh Hóa, 01 đơn vị từ sở Khoa học và công nghệ. Làm chủ và có nhiều kết quả nghiên cứu trực tiếp, là sản phẩm khoa học công nghệ, được ứng dụng thành công và cho ra thị trường các sản phẩm chất lượng, có giá trị kinh tế cao, như: Đông trùng hạ thảo, sản phẩm nấm ăn và nấm dược liệu, sản phẩm gạo chất lượng cao, sản phẩm từ chăn nuôi, thủy hải sản… Ngoài ra, những sản phẩm có triển vọng từ các nhiệm vụ khoa học công nghệ, hiện tại Viện Nông nghiệp chưa đáp ứng được với nhu cầu hiện nay, nhưng rất có giá trị và phù hợp với các địa phương trong tỉnh, các doanh nghiệp có nhiều lợi thế để nâng cao giá trị sản phẩm từ kết quả nghiên cứu của Viện Nông nghiệp, sự cần thiết của việc bảo vệ quyền sở hữu đối với các sản phẩm tiềm ẩn là hết sức quan trọng, không chỉ mang lại giá trị kinh tế cho địa phương mà còn có ý nghĩa sâu sắc trong việc bảo vệ chính trị nội bộ các sản phẩm đặc hữu   vùng miền, đậm nét giá trị văn hóa địa phương.

Việc nắm bắt, thực hiện xác lập quyền sở hữu trí tuệ lên các sản phẩm của Viện là vô cùng quan trọng.

Nấm Đông trùng Hạ thảo Viện Nông nghiệp
Nấm Đông trùng Hạ thảo Viện Nông nghiệp

Nấm Linh Chi Viện Nông nghiệp

Nấm Linh Chi Viện Nông nghiệp
Nấm Linh Chi Viện Nông nghiệp
Rượu Đông trùng hạ thảo Viện Nông nghiệp

Năm 2021, sản phẩm Rượu Đông trùng hạ thảo đã được đăng ký nhãn hiệu tem mác và hộp tại Cục Sở hữu trí tuệ với số công bố là 4202044462 và 3202002616. Nhãn hiệu Rượu Đông trùng hạ thảo từ đó được biết đến như một phần chính tạo nên thương hiệu của Viện Nông nghiệp Thanh Hoá. Hiện nay Viện Nông nghiệp Thanh Hóa đang nỗ lực phát triển thương hiệu của mình dành cho người tiêu dùng, để sản phẩm dược biết đến rộng rãi hơn nữa khắp trong và ngoài tỉnh. Quyền sở hữu trí tuệ về kiểu dáng nhãn hiệu, tên thương mại Rượu Đông trùng hạ thảo của Viện Nông nghiệp Thanh Hoá có tác động rất rõ nét. Khi đến tay khách hàng những dấu hiệu này được khắc họa hình ảnh của hình ảnh dịch vụ của Viện trong tiềm thức, cũng như tình cảm của khách hàng. Khi nhắc đến một nhãn hiệu hay kiểu dáng của chai rượu thì người tiêu dùng có thể nghĩ ngay đến sản phẩm, đặc trưng của Viện. Nhãn hiệu chính là công cụ marketing đắc lực đối với Viện Nông nghiệp Thanh Hóa. Bên cạnh đó nhãn hiệu còn hỗ trợ cho chính sách mở rộng, giúp cho quá trình phân phối sản phẩm dễ dàng hơn. Bởi một thực tế dễ nhận thấy, khách hàng khi mua hàng sẽ cảm thấy tin tưởng hơn khi mua những hàng hoá có tên gọi hay nhãn hiệu mà họ quen biết từ trước. Nhãn hiệu tốt giúp Viện tạo dựng vị thế, hình ảnh vững chắc trên thị trường nhằm thu hút khách hàng mới, và thu hút đầu tư cũng như thu hút nhân tài.… Nhãn hiệu cũng góp phần trong tăng lợi thế cạnh tranh về giá cho hàng hoá. Ngoài ra nhãn hiệu Rượu Đông trùng hạ thảo của Viện đang có mặt trên thị trường cũng là một rào cản vô cùng quan trọng ngăn cản sự thâm nhập của các đối thụ cạnh tranh mới. Sự thành công của Rượu Đông trùng hạ thảo sẽ là tiền đề, cũng như động lực để Viện tích cực ra tạo thêm nhiều sản phẩm chất lượng có thương hiệu.

Nhãn hiệu Rượu Đông trùng hạ thảo đăng ký thành công
Nhãn hiệu Rượu Đông trùng hạ thảo đăng ký thành công

Từ những nội dung đã trình bày ở trên, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động xác lập quyền sở hữu trí tuệ sản phẩm của Viện trong thời gian tới:

Một là: Tập trung nâng cao nhận thức, năng lực tạo lập và phát triển tài sản trí tuệ bằng cách cho các cán bộ, người lao động đang trực tiếp sản xuất, phụ trách các nhiệm vụ cơ sở của Viện Nông nghiệp,  tích cực tham gia các lớp bồi dưỡng cơ bản, chuyên sâu về nhãn hiệu, kiểu dáng cho sản phẩm ở mọi quy mô sản xuất.

Hai là:  Lựa chọn, đánh giá các sản phẩm có tiềm năng để tiến hành làm sớm các thủ tục đăng ký sở hữu trí tuệ. Định hướng ưu tiên sản phẩm để đầu tư cơ sở vật chất, điều kiện kinh tế và nhu cầu về tiếp cận thị trường để sớm đăng ký sở hữu trí tuệ cho sản phẩm, bảo vệ quyền sở hữu độc quyền.

Ba là: Thường xuyên tổ chức triển khai các chương trình giới thiệu sản phẩm của Viện để tăng cường mức độ nhận diện thương hiệu trên thị trường bằng nhiều hình thức như: tổ chức hội thảo, tọa đàm, hội chợ triển lãm…

Bốn là: Liên tục thực hiện việc khảo sát thị trường nhằm cập nhật thông tin và phát hiện khi sản phẩm của Viện Nông nghiệp có nguy cơ bị đạo, nhái, làm giả sản phẩm để kịp thời có hướng giải quyết. Phối hợp với ban quản lý thị trường và các lực lượng chức năng khi phát hiện sai phạm liên quan đến quyền sở hữu các sản phẩm mà Viện Nông nghiệp đã đăng ký độc quyền.

Năm là: Sử dụng tem chống hàng giả trên các sản phẩm của Viện đã được đăng ký.

Sáu là: Sử dụng công nghệ in hiện đại và các biện pháp kỹ thuật để đánh dấu, nhận biết, phân biệt trên bao bì, nhãn mác của sản phẩm nhằm tăng tính thẩm mỹ cũng như tránh việc làm giả, làm nhái các sản phẩm của Viện Nông nghiệp.

Bảy là: Niêm yết mẫu mã, kiểu dáng các sản phẩm đã được đăng kí quyền bảo hộ lên các kênh thông tin về quyền sở hữu trí tuệ của sản phẩm.

Tám là: Thông báo sản phẩm, dịch vụ đã được bảo hộ sở hữu trí tuệ trên các phương tiện truyền thông, các kênh thông tin tuyên truyền và khuyến cáo không được xâm phạm, sở hữu quyền đã được bảo hộ sản phẩm của Viện Nông nghiệp./.

Phạm Thị Lý
Trưởng phòng Phân tích và Thí nghiệm