Bài viết đặc biệt: NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG NHÂN GIỐNG BẰNG HẠT CỦA CÂY SA MU DẦU (Cunninghamia konishii Hayta) Ở GIAI ĐOẠN VƯỜN ƯƠM

Bài báo nghiên cứu được dịch song ngữ (Anh – Việt) – The article is bilingually translated (English – Vietnamese)

Viện Nông nghiệp Thanh Hóa xin trân trọng gửi tới bạn đọc bài viết đặc biệt Bài viết đặc biệt: NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG NHÂN GIỐNG BẰNG HẠT CỦA CÂY SA MU DẦU (Cunninghamia konishii Hayta) Ở GIAI ĐOẠN VƯỜN ƯƠM, với sự tham gia, nghiên cứu của:

Đặng Ngọc Huyền(1), Hoàng Thị Thu Trang(2), Vũ Đình Duy(1), Nguyễn Văn Sinh(3),Phạm Thị Lý(4), Đỗ Thị Tuyến(5), Phạm Mai Phương(1)
(1)Viện Sinh thái Nhiệt đới, Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga, Hà Nội
(2)Khoa Lâm học, Trường Đại học Lâm Nghiệp, Hà Nội
(3)Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An
(4)Viện Nông nghiệp Thanh Hóa, Thành phố Thanh Hoá
(5)Phân viện Công nghệ sinh học, Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga, Hà Nội.

I. Phiên bản tiếng Việt

II. English version

Phạm Thị Lý
TP.Phân tích và Thí nghiệm



Viện Nông nghiệp Thanh Hóa tham gia Hội nghị kết nối cung – cầu, kết hợp trưng bày giới thiệu sản phẩm nông sản thực phẩm an toàn, tỉnh Thanh Hóa năm 2022

Sáng ngày 05/11/2022, tại Trung tâm Triển lãm – Hội chợ – Quảng cáo tỉnh, UBND tỉnh đã tổ chức lễ khai trương Hội nghị kết nối cung – cầu, kết hợp trưng bày giới thiệu sản phẩm nông sản thực phẩm an toàn, tỉnh Thanh Hóa năm 2022. Hội nghị đã thu hút 102 đơn vị trong và ngoài tỉnh tham gia, với 150 gian hàng. Trong đó có 91 đơn vị, với 132 gian hàng trong tỉnh; các tỉnh bạn có 11 đơn vị, với 18 gian hàng. Sự kiện diễn ra từ ngày 05/11/2022 đến ngày 08/11/ 2022 với các hoạt động trưng bày, giới thiệu sản phẩm nông sản, thực phẩm an toàn trong và ngoài tỉnh; kết nối cung cầu.

Toàn cảnh lễ khai trương

Hội nghị kết nối cung – cầu, kết hợp trưng bày giới thiệu sản phẩm nông sản thực phẩm an toàn, tỉnh Thanh Hóa năm 2022 được tổ chức thực sự đã tạo ra sân chơi bổ ích để bà con nông dân, các HTX, doanh nghiệp, các địa phương trong và ngoài tỉnh có cơ hội giao lưu, quảng bá các sản phẩm nông nghiệp, thực phẩm an toàn tiêu biểu của địa phương đến được với đông đảo người tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất và hướng đến xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, giá trị gia tăng cao. Đồng thời, trên cơ sở đó đi đến ký kết các hợp đồng kinh tế, các biên bản ghi nhớ về cung cấp, tiêu thụ các sản phẩm, thúc đẩy sản xuất, lưu thông, chế biến và tiêu thụ hàng hóa nông sản, thực phẩm an toàn giữa các địa phương, HTX, doanh nghiệp và bà con nông dân gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Đây cũng là cơ hội để tỉnh Thanh Hóa đón tiếp quý vị đại biểu thuộc các tỉnh, thành phố trong cả nước giới thiệu về mảnh đất, con người Xứ Thanh, quảng bá tiềm năng và cơ hội đầu tư của tỉnh đến các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh.. .Các cấp, ngành, các địa phương, doanh nghiệp và các hộ sản xuất trong tỉnh tiếp thu được nhiều thông tin quý báu về nhu cầu thị trường, từ đó có kế hoạch sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.

Nhận thấy tầm quan trọng của Hội nghị kết nối cung – cầu, kết hợp trưng bày giới thiệu sản phẩm nông sản thực phẩm an toàn, tỉnh Thanh Hóa năm 2022, Phòng Phân tích và thí nghiệm – Viện Nông nghiệp Thanh Hóa đã phối với một số phòng ban và Trung tâm trực thuộc viện đưa các sản phẩm của Viện để tham gia trưng bày tại hội nghị.

Để hoạt động quảng bá sản phẩm, hình ảnh Viện Nông nghiệp Thanh Hóa thông qua chương trình hội chợ trưng bày, các cán bộ được giao nhiệm vụ đã xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai công tác hội nghị, điển hình một số công việc trọng tâm như: chuẩn bị các sản phẩm chất lượng trưng bày; in tờ rơi để quảng cáo, giới thiệu sản phẩm; in market và chuẩn bị đồ trang trí gian hàng; kết hợp với các phòng và trung tâm để bổ sung một số sản phẩm làm đa dạng hàng hóa; quảng bá sản phẩmcủa Viện.

Sau một thời gian tích cực chuẩn bị, Viện Nông nghiệp Thanh Hóa đã đem đến Hội nghị kết nối cung – cầu, kết hợp trưng bày giới thiệu sản phẩm nông sản thực phẩm an toàn, tỉnh Thanh Hóa năm 2022 các sản phẩm đặc trưng để trưng bày, giới thiệu và bán như: nấm đông trùng hạ thảo tươi, nấm đông trùng hạ thảo khô, rượu đông trùng hạ thảo, nấm linh chi, rau thủy canh, rau mầm, các loại nấm ăn, các sản phẩm nuôi cấy mô,… và trưng bày các sản phẩm phong lan của Phòng Quản lý khoa học, một số loại cây của Trung tâm nghiên cứu khảo nghiệm và dịch vụ cây trồng, sản phẩm cua lột của Trung tâm nghiên cứu khảo nghiệm và dịch vụ vật nuôi.

Chiều ngày 04/11/2022, Phòng Phân tích và thí nghiệm đã hoàn thiện khâu chuẩn bị và tiến hành trang trí cũng như trưng bày các sản phẩm tại gian hàng của Hội nghị với tiêu chí đẹp, bắt mắt để thu hút và chất lượng để giữ chân khách hàng.

Đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Đức Giang đến tham quan gian hàng của Viện trong quá trình chuẩn bị chiều 04/11/2022.

Hình ảnh gian hàng Viện Nông nghiệp Thanh Hóa tại hội chợ trưng bày , giới thiệu sản phẩm nông sản thực phẩm an toàn tỉnh Thanh Hóa năm 2022

Một số hình ảnh tại gian hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa

Trong 4 ngày diễn ra hội nghị, gian hàng của Viện đã thu hút hàng trăm lượt người đến tham quan và mua sắm. Đa số khách hàng khi dùng thử sản phẩm đều đánh giá sản phẩm của Viện không chỉ có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng mà hình thức, mẫu mã phong phú, đẹp; chất lượng đảm bảo, các sản phẩm đều tươi, ngon và được tư vấn nhiệt tình. Hội nghị kết nối cung – cầu, kết hợp trưng bày giới thiệu sản phẩm nông sản thực phẩm an toàn, tỉnh Thanh Hóa năm 2022 là cầu nối hiệu quả và là kênh xúc tiến thương mại quan trọng cho các sản phẩm có chất lượng của Viện đến gần hơn với khách hàng, tạo cơ hội giao lưu, quảng bá hình ảnh Viện.

Sự kiện này đã tạo ra một sân chơi rất hiệu quả để các sản phẩm đặc trưng của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa hội nhập với các sản phẩm của địa phương; quảng bá và mở rộng thị trường tiêu thụ từ đó không ngừng nâng cao chất lượng và mẫu mã sản phẩm để sẵn sàng tham gia vào thị trường tiêu dùng trong tỉnh và mở rộng ra các khu vực lân cận cũng như cả nước. Hội nghị cũng là dịp để các cán bộ của đơn vị được trau dồi thêm kỹ năng bán hàng, giới thiệu, quảng cáo sản phẩm đến gần với người tiêu dùng./.

Th.s. Mai Thị Hồng Lâm
Chuyên viên phòng Phân tích và thí nghiệm

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO BẰNG NHÂN GIỐNG CÂY (INVITRO) NUÔI CẤY MÔ TẠI VIỆN NÔNG NGHIỆP THANH HÓA

Quyết định số: 1426/QĐ – UBND, ngày 24 tháng 04 năm 2020 Quyết định phê duyệt đề án phát triển Viện Nông nghiệp Thanh Hóa, giai đoạn 2021 – 2025; Xây dựng và phát triển Viện Nông nghiệp Thanh Hóa theo hướng hiện đại và hội nhập, chủ động khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực để nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ; xây dựng và nhân rộng các tiến bộ kỹ thuật mới, tư vấn chiến lược, cung cấp dịch vụ, góp phần xây dựng nền nông nghiệp hiện đại có khả năng cạnh tranh cao, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.

Có thể nói, việc sản xuất nông nghiệp công nghệ cao là hướng phát triển tất yếu hiện nay. Tại Viện Nông nghiệp Thanh Hóa, việc ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN) cao mới bắt đầu thực hiện và ở quy mô chưa lớn nhưng đã khẳng định hiệu quả và thích nghi tốt đối với trình độ của nông dân. Ứng dụng KH&CN cao trong sản xuất nông nghiệp ở tỉnh đã được thực hiện trong cả quá trình sinh trưởng của cây trồng nhằm hạn chế sự tác động bất lợi của thời tiết, khí hậu, tạo ra sản phẩm đạt chất lượng cao, đồng đều, trong đó có kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật.

Cán bộ phòng phân tích và thí nghiệm đang kiểm tra cây giống keo nuôi cấy mô

Phương pháp nhân giống bằng công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật là kỹ thuật tiên tiến nhất hiện nay và ngày càng phổ biến với nhiều ưu điểm vượt trội, giúp khắc phục nhanh tình trạng thoái hóa của các giống cây trồng. Những năm qua, Phòng Phân tích và thí nghiệm – Viện Nông nghiệp đã nghiên cứu, làm chủ nhiều quy trình công nghệ và đưa vào sản xuất thành công nhiều giống cây trồng bằng phương pháp nuôi cấy mô đã lưu giữ, phát triển và sản xuất được hàng loạt các loại cây trồng, các chủng giống nấm có chất lượng cao.

Nuôi cấy mô tế bào thực vật là phương pháp nhân giống vô tính được sử dụng nhằm sản xuất nhanh và đồng loạt các loại giống cây trồng lưu giữ được hoàn toàn đặc tính của cây gốc, khắc phục nhược điểm của các phương pháp nhân vô tính khác như chiết, ghép hay giâm cành. Với tính toàn năng của tế bào thực vật, chúng có khả năng thay đổi quá trình trao đổi chất, sinh trưởng để tái sinh thành cây hoàn chỉnh. Môi trường nuôi cấy mô thực vật chứa tất cả các dưỡng chất cần thiết cho sự phát triển bình thường của cây trồng. Ưu điểm của phương pháp công nghệ này là nhân giống với số lượng lớn mang đặc tính tốt giống hệt cây mẹ, hệ số nhân giống cao, đáp ứng nguồn giống quanh năm với chất lượng tốt đồng đều, sạch bệnh, mang đến hiệu quả kinh tế cao chỉ cần trong một thời gian ngắn. Phương pháp này còn giúp bảo vệ các giống cây quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng.

Quy trình nuôi cấy mô là một công đoạn dài và khó khăn, phòng đã nghiên cứu và thực hành một số loại cây mà thị trường yêu cầu.

Phòng Phân tích và thí nghiệm đã thực hiện kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật. Phòng đã phát triển nhân giống bằng phương pháp này với nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Việc nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào tạo ra cây giống có chất lượng cao, sạch bệnh, mang đặc tính di truyền từ cây mẹ. Đây là một trong những phương pháp hiệu quả nhất để phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong điều kiện biến đổi khí hậu không ngừng tác động xấu đến sản xuất nông nghiệp truyền thống.

Sau thử nghiệm sản xuất thành công giống cây Lan kim tuyến từ năm 2020, Phòng đã mở rộng quy mô nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào với nhiều giống cây trồng khác nhau. Phòng nuôi cấy mô của Viện được đầu tư khá quy mô và trang bị cơ sở vật chất thiết bị đủ khả năng sản xuất rất nhiều lượng cây giống cung cấp cho thị trường. Hiện Phòng đang quản lý hàng chục giống cây và sản xuất theo yêu cầu của thị trường như các giống cây lâm nghiệp, cây dược liệu, các loại giống hoa, trong đó có các loại cây có giá trị kinh tế như lan kim tuyến, đông trùng hạ thảo,  nấm linh chi, đùi gà, hoa đồng tiền, mía tím, mía đường, hoa chuông, hoa cúc… Đặc biệt, với phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật đã tạo ra giống cây keo lai khẳng định tính ưu việt trong việc nâng cao năng suất và chất lượng gỗ rừng trồng, đã cung cấp cây giống cho các doanh nghiệp trong tỉnh.

Cây giống mía Kim Tân

Cây hoa chuông từ nuôi cấy môCây hoa cúc từ nuôi cấy mô

Cây hoa đồng tiền từ nuôi cấy mô

Cây Lan kim tuyến được sản xuất từ nuôi cấy mô

Hiện nay phòng đã làm chủ được hoàn toàn các quy trình kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô. Phương pháp này có thể sàng lọc những cây có tính trạng tốt để sản xuất đồng loạt giống cây có chất lượng tốt cho ra sản phẩm có giá trị kinh tế cao nhiều hơn so với cây nhân giống bằng phương pháp truyền thống. Cây nuôi cấy mô sạch bệnh, sáng màu, đồng đều hơn. Áp dụng phương pháp này có thể nhân giống  nhanh và đồng đều các giống cây, đáp ứng kịp thời vụ cây trồng trong trường hợp gặp rủi ro thiên tai như vừa qua. Sắp tới, Phòng sẽ triển khai nghiên cứu, sản xuất giống cây lan kim tuyến là một loại dược liệu quý có nguy cơ tuyệt chủng ngoài tự nhiên.

Ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật tại Viện Nông nghiệp Thanh Hóa đã bước đầu gặt hái những thành công. Đây là một bước phát triển nông nghiệp công nghệ cao giúp cho nông dân trên địa bàn chủ động được nguồn giống các loại cây trồng có giá trị kinh tế trên thị trường. Từ đó làm thay đổi và nâng cao nhận thức cho nông dân về mô hình nuôi trồng hiện đại này để ngày càng nhân rộng quy mô và hiệu quả kinh tế trong trồng trọt trước sự tác động bất lợi của biến đổi khí hậu.

Hồ Thị Quyên
Phòng phân tích và thí nghiệm 

HỘI THẢO GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP GÓP PHẦN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI HUYỆN MƯỜNG LÁT, TỈNH THANH HÓA

Ngày 04/10/2022 Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Văn phòng điều phối Nông thôn mới – Bộ Nông nghiệp và PTNT phối hợp với Sở Nông nghiệp và PTNT, Viện Nông nghiệp, UBND huyện Mường Lát tổ chức Hội thảo giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp góp phần xây dựng Nông thôn mới tại huyện Mường Lát. Đồng chí Lê Đức Giang, Phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa đến dự và chỉ đạo Hội thảo.

Tham dự Hội thảo thành phần gồm; Đại diện các cơ quan Trung ương có lãnh đạo Cục Trồng trọt, chăn nuôi, Kinh tế hợp tác và PTNT, Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, vụ Phát triển sản xuất Lâm nghiệp,Viện Khoa học lâm nghiệp – Bộ Nông nghiệp và PTNT; về phía tỉnh Thanh Hóa có đại diện các ban của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở ngành của tỉnh Thanh Hóa; lãnh đạo huyện Mường Lát, lãnh đạo các xã, bản cùng đại diện các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và phát triển nông thôn.

Tại hội thảo, các nhà khoa học, lãnh đạo các sở, ngành tỉnh Thanh Hóa và các đại biểu đã tập trung thảo luận, đánh giá về kết quả xây dựng các chương trình, đề tài, dự án khoa học và công nghệ trong lĩnh vực phát triển nông thôn, các mô hình phát triển sản xuất và xây dựng NTM tại huyện Mường Lát, giai đoạn 2011 – 2022; thực trạng sản xuất nông nghiệp, cơ chế chính sách và giải pháp thực hiện xây dựng NTM trên địa bàn huyện giai đoạn 2023 – 2025, định hướng đến năm 2030. Các đại biểu cũng thảo luận một số giải pháp phát triển lâm nghiệp; thực trạng và định hướng phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, liên kết chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp; thực trạng phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Mường Lát…

Hội thảo cũng được nghe báo cáo tham luận của của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa với chủ đề “Đánh giá tình hình sản xuất nông nghiệp huyện Mường Lát giai đoạn 2011-2022, phương hướng nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2023-2030”. Bài tham luận đã đánh giá rất sâu sắc về thực trạng về kinh tế – xã hội, môi trường và các tiến bộ khoa học – công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đã và đang áp dụng tại huyện Mường Lát; những thuận lợi, khó khăn về phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp, du lịch cộng đồng, phát triển sản phẩm OCOP, từ đó đưa ra những định hướng và giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn trên địa bàn huyện Mường Lát, giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030. Và các bài tham luận trực tiếp của Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương; Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam và UBND huyện Mường Lát.

Hội thảo được nghe bài phát biểu chỉ đạo của Đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Đức Giang, đồng chí đã bày tỏ vui mừng và gửi lời cảm ơn tới các cơ quan của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các cơ quan trung ương, các nhà khoa học và các đơn vị liên quan đã quan tâm tổ chức hội thảo ý nghĩa dành cho huyện Mường Lát. Theo đồng chí, sau 26 năm thành lập huyện, được sự quan tâm của Trung ương, tỉnh, sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền, và Nhân dân, huyện Mường Lát đã có sự phát triển đáng kể. Song do đặc thù là huyện vùng cao, trọng điểm của thiên tai, ít đất sản xuất và nhiều điều kiện không thuận lợi nên Mường Lát hiện vẫn là huyện khó khăn nhất tỉnh và là một trong những huyện nghèo nhất cả nước. Hội thảo đã gợi mở được nhiều vấn đề và định hướng phát triển cây trồng, vật nuôi, định hướng xây dựng Nông thôn mới – những nội dung hết sức có ý nghĩa cho huyện vùng cao biên giới này. Đồng chí Phó chủ tịch tỉnh cũng đề nghị Bộ NNPTNT, các cơ quan Trung ương quan tâm, hỗ trợ huyện Mường Lát xây dựng mô hình chăn nuôi tập trung; xây dựng mô hình trồng cây ăn quả ở vùng có khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp; xây dựng mô hình trồng và chế biến, tiêu cây thụ dược liệu…

Tại Hội thảo đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh đã chỉ đạo và giao nhiệm vụ cụ thể cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các sở, ngành cấp tỉnh có liên quan, phải khẩn trương tham mưu cho tỉnh xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ gạo cho Nhân dân trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng ở 11 huyện miền núi nói chung và huyện Mường Lát nói riêng; chính sách hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi cho đồng bào huyện Mường Lát; giúp huyện quy hoạch lại vùng, quy hoạch lại sản xuất; nghiên cứu xây dựng đề tài khoa học du nhập, phát triển dược liệu dưới tán rừng trên địa bàn huyện Mường Lát; bám sát kế hoạch của UBND tỉnh đã ban hành về xây dựng NTM, khẩn trương đề suất một số nhiệm vụ trong nguồn vốn sự nghiệp ưu tiên cho Mường Lát…Đặc biệt đồng chí Phó chủ tịch UBND tỉnh giao Viện Nông nghiệp Thanh Hóa khẩn trương hoàn thành đề án Phát triển rừng bền vững huyện Mường lát giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045 và tham mưu cho UBND huyện Mường Lát lập quy hoạch vùng sản xuất trồng trọt, chăn nuôi; phối với các đơn vị liên quan của Bộ NN & PTNT xây dựng Đề tài du nhập, khảo nghiệm, phát triển dược liệu trên địa bàn huyện Mường Lát; và nghiên cứu xây dựng nhiệm vụ đặt hàng công ích để du nhập, nghiên cứu, khảo nghiệm và phát triển các mô hình cây trồng, vật nuôi phù hợp, hiệu quả kinh tế cao tại Mường Lát.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Đức Giang cũng đề nghị lãnh đạo huyện Mường Lát tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiểu sâu về Nghị quyết 11 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển huyện Mường Lát đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; phổ biến rộng rãi kết quả của Hội thảo “Giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp góp phần xây dựng nông thôn mới tại huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa”; rà soát lại quy hoạch vùng mà UBND tỉnh đã phê duyệt năm 2021, đảm bảo sự liên kết, thúc đẩy nhau cùng phát triển; tích cực kêu gọi, tạo điều kiện thu hút các doanh nghiệp vào địa bàn trên tinh thần tự lực, tự cường để phát triển kinh tế xã hội huyện Mường Lát một các bền vững.

Kết luận hội thảo, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh nhấn mạnh: Cần đánh giá lại tiềm năng, lợi thế của huyện Mường Lát một cách bài bản hơn để đưa các giải pháp công nghệ phù hợp đối với sự phát triển của địa phương. Đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn, cần tập trung phát triển các giá trị bản địa, gồm cây trồng, vật nuôi, dược liệu bản địa, thậm chí là sơ chế, bảo quản bản địa, tiến tới nhân rộng các mô hình và chuyển giao công nghệ, đồng thời Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cam kết sẽ xem xét nghiêm túc các đề nghị của đại biểu về phát triển nông nghiệp, nông thôn tại huyện Mường Lát. Các ý kiến của đại biểu tham dự hội thảo sẽ được tổng hợp, báo cáo lãnh đạo Bộ NN & PTNT, các cơ quan liên quan để có những giải pháp tháo gỡ khó khăn và định hướng phát triển nông nghiệp & xây dựng nông thôn mới  cho huyện Mường Lát../.

ThS. Lê Trần Thái

                          Trung tâm Nghiên cứu Khảo nghiệm và dịch vụ vật nuôi

Nông dân tất bật gặt lúa mùa, chuẩn bị vụ đông

THANH HÓA – Vụ mùa năm nay tại Thanh Hóa lúa sạch sâu bệnh, năng suất cao hơn năm ngoái nên bà con ai cũng rổn rảng.

Năng suất lúa ước đạt 56 – 57 tạ/ha

Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, người dân đang tranh thủ thời tiết thuận lợi, khẩn trương thu hoạch các diện tích lúa vụ mùa 2022. Không khí vui tươi, phấn khởi là điều dễ nhận thấy trên khắp các cánh đồng, đường làng, ngõ xóm khi năng suất vụ mùa năm nay cao hơn so với năm trước.

Ghi nhận tại huyện Quảng Xương, vụ mùa năm nay, toàn huyện gieo cấy 6.600ha, cơ cấu chủ yếu bằng các giống lúa năng suất, chất lượng cao. Đến hiện tại, toàn huyện đã thu hoạch được khoảng 30% diện tích với năng suất ước đạt 59 tạ/ha. Một số xã có tiến độ thu hoạch nhanh như Quảng Trường, Quảng Phúc, Quảng Đức, Quảng Định…

IMG_3911

Nông dân Thanh Hóa đang huy động tối đa nhân lực, phương tiện, máy móc để thu hoạch lúa vụ mùa 2022. Ảnh: Trung Quân.

Bà Phạm Thị Hà, thôn Phú Đa, xã Quảng Đức (Quảng Xương) phấn khởi chia sẻ: Vụ mùa năm nay, lúa được mùa lớn, hơn 3 sào lúa của gia đình bà đều cho năng suất trung bình 3 tạ/sào (so với vụ mùa năm trước chỉ 2 – 2,3 tạ/sào).

Theo bà Hà, vụ mùa năm nay mật độ sâu bệnh hại lúa thấp, cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt nên không phải tiến hành phun trừ, giúp tiết kiệm được nhiều chi phí phân bón và thuốc BVTV.

“Mọi năm đủ các loại sâu bệnh, năm nay lại chẳng thấy, bông lúa to, hạt mẩy, phơi ở giữa đường đi nên ai ngang qua cũng ghé lại xem, hỏi thăm. Giờ chỉ mong thời tiết không mưa để phơi phóng cho được thuận lợi là có vụ mùa hoàn hảo”, bà Hà vui vẻ.

Không giấu được niềm vui khi 1 mẫu lúa của gia đình mình cho năng suất cao, bà Phạm Thị Xuân, thôn Xa Thư, xã Quảng Bình (Quảng Xương) cho biết: Vụ mùa năm nay gia đình bà gieo cấy muộn hơn so với mọi năm nên đầu vụ khá lo lắng. Tuy nhiên, không ngờ cấy muộn lại hay, sâu bệnh hại lúa ít, chỉ có một chút sâu đục thân và chuột. Hiện tại, gia đình bà đã thu hoạch được 70% diện tích với năng suất trung bình đạt 2,8 tạ/sào.

“Vụ mùa năm nay hầu hết bà con ở đây đều được mùa. Hộ nào chịu khó thăm đồng, chăm sóc thì lúa đều đạt năng suất cao, chứ cấy xong để đấy thì năng suất không ăn thua vì chuột cắn phá nhiều, tỷ lệ lúa lép cao”, bà Xuân chia sẻ.

Ông Vũ Quang Trung, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Thanh Hóa thông tin: Vụ mùa 2022 được đánh giá là vụ mùa an toàn về khung thời vụ, mật độ sâu bệnh gây hại thấp, chất lượng lúa được đảm bảo… Theo thống kê, đến hết ngày 14/9, tổng diện tích lúa mùa đã thu hoạch trên địa bàn toàn tỉnh hơn 38.300ha (đạt 33%). Năng suất lúa trung bình ước đạt 56 – 57 tạ/ha (so với vụ mùa 2021 là 55,6 tạ/ha).

z3724338517467_60b7c55bca4c0116232840b23e7776ef

Bà Phạm Thị Hà, thôn Phú Đa, xã Quảng Đức (Quảng Xương), phấn khởi vì năng suất lúa vụ mùa năm nay cao hơn năm trước. Ảnh: Trung Quân.

Theo ông Trung, để bảo vệ năng suất, chất lượng lúa, trong điều kiện thời tiết vẫn có những diễn biến khó lường, ngành nông nghiệp Thanh Hóa đã chỉ đạo các địa phương, đôn đốc người dân bám sát đồng ruộng, huy động nhân lực, các loại phương tiện, máy móc tập trung thu hoạch nhanh, gọn những diện tích lúa đã chín với phương châm “xanh nhà hơn già đồng”.

Bên cạnh đó, giám sát chặt chẽ mức giá thu gặt lúa của các chủ phương tiện, tránh tình trạng nâng ép giá, ảnh hưởng đến thu nhập của bà con nông dân; theo dõi diễn biến của thời tiết, tổ chức ra quân nạo vét các tuyến kênh mương nhằm tạo thuận lợi cho việc tiêu thoát nước khi có mưa lớn xảy ra. Đối với những diện tích lúa chưa đủ điều kiện thu hoạch, xảy ra trường hợp đổ ngã phải kịp thời dựng buộc, tránh hiện tượng bông lúa bị ngâm nước, mọc mầm…

Thu hoạch đến đâu, làm đất xuống giống vụ đông đến đó

Cũng theo ông Vũ Quang Trung, song song với việc khẩn trương thu hoạch vụ mùa, ngành nông nghiệp Thanh Hóa cũng chỉ đạo các địa phương đẩy nhanh tiến độ sản xuất vụ đông với phương châm “thu hoạch tới đâu, giải phóng đất và gieo trồng cây vụ đông đến đó”.

Ông Quang thông tin: Trong vụ đông 2022 – 2023, tỉnh Thanh Hóa triển khai theo chủ trương tái cơ cấu ngành trồng trọt theo hướng nâng cao giá trị và phát triển bền vững; xác định vụ đông là vụ sản xuất quan trọng đối với tăng trưởng của toàn ngành cho năm tiếp theo. Vì vậy, tỉnh đã xác định sử dụng đối tượng, giống cây trồng có lợi thế, tập trung mở rộng tối đa diện tích, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để gia tăng năng suất…

z3724305698211_2b4888846457c35f56ad5ce9c1c95952

Theo đa số người dân, vụ mùa 2022, mật độ sâu bệnh hại lúa thấp nên tiết kiệm được khá nhiều chi phí phân bón và thuốc BVTV. Ảnh: Trung Quân. 

Các địa phương phấn đấu tăng tối đa diện tích các cây trồng chính như ngô, cây thức ăn chăn nuôi, rau vụ sớm có thể tiêu thụ nội tỉnh; mở rộng diện tích sản xuất các loại rau quả có giá trị kinh tế cao và có thể bảo quản lâu dài, có khả năng thuận lợi trong quá trình vận chuyển không cần phải sơ chế, đóng gói cầu kỳ như bí xanh, khoai lang, hành tỏi, su hào, khoai tây.

Thanh Hóa chủ trương chỉ sản xuất các loại cây trồng phục vụ xuất khẩu khi có hợp đồng và bảo lãnh tiêu thụ nông sản; tính toán rải vụ sản xuất một cách phù hợp cho từng đối tượng cây trồng, tránh hiện tượng thừa thiếu cục bộ.

Bên cạnh đó, gắn sản xuất với chứng nhận an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, bảo vệ môi trường sinh thái và nâng cao giá trị thu nhập cho người dân. Tiếp tục mời gọi và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất trồng trọt vụ đông, hình thành các chuỗi liên kết sản xuất bền vững, sản xuất theo hợp đồng, đáp ứng nhu cầu thị trường.

Đồng thời, quan tâm xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm; hạn chế tình trạng sản xuất không đáp ứng nhu cầu thị trường hoặc dư thừa nông sản gây thất thiệt cho người sản xuất…

Về thời vụ gieo trồng, đối với nhóm cây ưa ấm, gieo trồng vụ đông sớm, thời vụ gieo trồng kết thúc trước ngày 10/10; nhóm cây ưa lạnh gieo trồng sau ngày 10/10, cây khoai tây tập trung trồng từ 20/10 – 5/11.

Sở NN-PTNT Thanh Hóa đề ra mục tiêu: Tổng diện tích gieo trồng cây vụ đông phấn đấu đạt 46.000ha trở lên. Trong đó, ngô 15.000ha, năng suất 48 tạ/ha, sản lượng 72.000 tấn; khoai lang 2.700ha, năm suất 77 tạ/ha, sản lượng 20.790 tấn; lạc 1.500ha, năng suất 21 tạ/ha, sản lượng 3.150 tấn; rau đậu các loại và cây trồng khác 26.800ha. Tổng giá trị sản xuất vụ đông phấn đấu đạt 3.404 tỷ đồng trở lên, bình quân đạt 74 triệu đồng/ha gieo trồng (tăng 1,4 triệu đồng/ha so với vụ đông 2021 – 2022).

Nguồn: Nongnghiep.vn

Trần Anh Đức (Văn phòng Viện) ST

DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG MỘT SỐ LOẠI NÔNG SẢN CHỦ LỰC TRONG TỈNH VÀ CẢ NƯỚC QUÝ I/2022

  1. Các sản phẩm từ cây có hạt: lúa, gạo, ngô…

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu gạo tháng 1/2022 đã bật tăng mạnh 45,4% về lượng, tăng 28,2% về trị giá so với tháng 1/2021, đạt lần lượt 505.741 tấn và 246 triệu USD. Tuy nhiên, giá gạo xuất khẩu trung bình trong tháng đầu năm 486,5 USD/tấn, giảm 11,8% so với cùng kỳ năm trước.

Tại thị trường trong nước, trong tháng 02/2022, giá lúa gạo bán buôn có xu hướng tăng nhẹ. Gía lúa gạo nếp trong tháng 1/2022 có xu hướng tăng nhanh vào thời điểm cận kề dịp tết nguyên đán do nhu cầu sử dụng gạo nếp làm nguyên liệu chính để làm các loại bánh truyền thống như: bánh trung, bánh tét… Cụ thể, lúa thường tại ruộng cao nhất là 5.600 đồng/kg, giá bình quân là 5.429 đồng/kg, tăng 18 đồng/kg. Giá lúa thường tại kho cao nhất 6.950 đồng/kg, trung bình là 6.420 đồng/kg, tăng 20 đồng/kg. Giá các mặt hàng gạo cũng không có biến động mạnh. Giá gạo 5% tấm có giá cao nhất 9.450 đồng/kg, giá bình quân 9.177 đồng/kg, giảm 7 đồng/kg. Gạo 15% tấm vẫn ổn định với giá cao nhất 9.250 đồng/kg, giá bình quân 8.933 đồng/kg. Gạo 25% tấm có giá cao nhất 9.050 đồng/kg, giá bình quân 8.642 đồng/kg, tăng 8 đồng/kg. Riêng gạo xát trắng loại 1 có giá trung bình là 9.133 đồng/kg, giảm 50 đồng/kg. Trước tình hình dịch bệnh kéo dài gây ảnh hưởng nghiêm trọng nhiều mặt dự báo giá gạo nếp thành phẩm xuất ra thị trường năm nay chỉ giữ ở mức ổn định và có thể giảm hơn nữa. Sản phẩm ngô ngọt và ngô làm thức ăn chăn nuôi trên thế giới có xu hướng tăng giá mạnh do đứt gãy nguồn cung từ Nga và Ukraine.

Tại thị trường trong tỉnh, nhìn chung giá lúa, gạo trong tỉnh vẫn giữ ở mức ổn định, nguồn cung gạo các loại tương đối dồi dào, thị trường không xảy ra tình trạng mất cân đối cung cầu. Một số loại gạo ngon như: tám thơm, bắc thơm giá tăng nhẹ do nhu cầu tiêu thụ tăng nhanh trong những ngày đầu tháng 02/2022. Giá ngô nguyên liệu nhập vào trong nước cũng vì thế tăng lên 8000 đồng/kg.

Một số nhận định, dự báo giá cả và nhu cầu tiêu thụ:

Các chuyên gia dự báo, xuất khẩu gạo nhiều khả năng tăng từ tháng 3/2022, khi vụ Đông Xuân cho thu hoạch rộ, nguồn cung lúa gạo sẽ tương đối dồi dào nên nhiều khả năng giá lúa gạo trong quý 1/2022 có xu hướng bình ổn hoặc có thể giảm nhẹ.

Nhu cầu tiêu dùng các loại gạo ở cả trong và ngoài nước trong quý I/2022 là tương đối lớn, nhất là khi các hoạt động sản xuất kinh tế bắt đầu trở lại sau thời gian dài giãn cách xã hội vì dịch Covid 19. Tại thị trường lúa gạo Thanh Hóa, thương hiệu sản phẩm gạo Ngọc Phố, nếp cái hoa vàng Qúy Hương của công ty CP Thương mại Sao Khuê đang rất được người dân trong và ngoài tỉnh tin tưởng sử dụng. Đây là 2 sản phẩm gạo chủ lực của công ty được đánh giá cao về chất lượng và đã tham dự nhiều các cuộc hội chợ trong và ngoài nước, rất có tiềm năng có thể xuất khẩu sang môt số thị trường nước ngoài khó tính như: Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước châu Âu…Khi các hoạt động sản xuất trở lại, nhất là công cuộc tái đàn nghành chăn nuôi của tỉnh và cả nước bắt đầu phục hồi mạnh mẽ, mặt khác, Việc đứt gãy nguồn cung nguyên liệu thức ăn chăn nuôi đã khiến các doanh nghiệp quay lại trông chờ sản lượng trong nước. Bộ NN-PTNT từng khuyến khích nông dân chuyển đổi một số vùng trồng lúa để chuyển sang trồng bắp nhưng suốt một thời gian dài diện tích bắp cả nước vẫn giảm do không cạnh tranh được với bắp nhập khẩu. Dự báo nhu cầu tiêu thụ ngô nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi trong cả nước bắt đầu tăng mạnh khiến giá ngô nguyên liệu có thể tăng cao trong thời gian sắp tới.

  1. Giá sản phẩm rau quả:

Tính đến đầu năm 2022, hoạt động trồng trọt trên cả nước diễn ra trong điều kiện thuận lợi so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng 3/2022, giá rau tại một số tỉnh, thành phố tăng nhẹ so với tháng trước do cuộc khủng hoảng tại Ukraine khiến giá xăng dầu leo thang nhanh chóng, khiến chi phí sản xuất, vận tải tăng cao dẫn đến giá cả một số mặt hàng rau củ quả tăng mạnh. Tại Hà Nội, giá một số loại rau ăn lá (như rau ngót, rau muống) tăng mạnh. Xu hướng này xảy ra tương tự tại một số tỉnh thành trong cả nước. Trong khi đó, đối với mặt hàng quả: giá dừa tươi tại Bến Tre ổn định hơn so với tháng trước.

Những tháng cuối quý I/2022, tình hình dịch bệnh Covid-19 bước sang một giai đoạn mới, Chính phủ đã ban hành nhiều biện pháp mới nhằm thích ứng với dịch bệnh cùng với phát triển kinh tế. Nhiều hoạt động sản xuất kinh tế tại nhiều tỉnh thành đã hoạt động bình thường trở lại. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng được đẩy mạnh khiến nguồn cung các sản phẩm rau củ quả trong và ngoài nước tương đối dồi dào.

Thị trường trong tỉnh do kiểm soát tốt được tình hình dịch bệnh, tình trạng khan hiếm thực phẩm không xảy ra, nên giá cả các mặt hàng nông sản trên địa bàn tỉnh không biến động nhiều. Tuy nhiên do ảnh hưởng bởi việc giá xăng dầu tăng cao nên nhiều mặt hàng rau củ quả giá cũng tăng mạnh bắt đầu vào giữa tháng 2/2022.

Một số nhận định, dự báo giá cả và nhu cầu tiêu thụ:

Trong những tháng tiếp theo năm 2022, xuất khẩu rau quả của Việt Nam tăng so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước. Xu hướng tích cực này có được một phần nhờ kinh nghiệm phòng chống dịch bệnh, Việt Nam đã điều hành hoạt động xuất khẩu thông suốt, không xảy ra tình trạng ùn ứ, đặc biệt tại các cửa khẩu. Bên cạnh đó, sự vào cuộc tích cực của các Bộ ban ngành, địa phương đã mang lại kết quả khả quan, hứa hẹn những thuận lợi trong thời gian tới. Tuy nhiên với tình hình chiến sự tại Ukraine đang diễn biến phức tạp kéo theo giá xăng dầu sẽ tăng cao trong những tháng tiếp theo dẫn đến giá giả một số mặt hàng rau củ quả có thể tăng nhẹ. Dự báo nhu cầu tiêu thụ rau củ quả trong và ngoài tỉnh có xu hướng giảm nhẹ. Ngoài các sản phẩm nông sản xuất thô như hàng năm, có thế kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các dây chuyền sản xuất chế biến khép kín đóng gói sản phẩm để gia tăng giá trị cho nhiều loại sản phẩm như: dứa gai, cam, ổi…

  1. Giá sản phẩm chăn nuôi và nuôi trồng thủy hải sản:

Tại thị trường trong nước, trong tháng 2/2022, giá lợn hơi biến động giảm nhẹ tại các khu vực. Tại miền Bắc, giá lợn hơi dao động trong khoảng giá từ 54.000 – 58.000 đồng/kg. Các tỉnh phía bắc được ghi nhận mức giao dịch thấp nhất khu vực ở mốc 54.000 đồng/kg. Đối với các sản phẩm gia cầm bán tại trại, giá gà thịt lông màu đều tăng nhẹ ở các địa phương, trong khi đó giá gà công nghiệp tăng nhẹ ở miền Bắc, giá giữ ổn định trong tháng 5, tháng 6. Các mặt hảng thủy hải sản giá cả có xu hướng tăng nhẹ tại các thị trường tiêu thụ lớn trong nước như: Hà Nôi, Hải Phòng, TP.HCM…

Thị trường trong tỉnh ghi nhận biến động không nhiều. Giá các mặt hàng thịt bò, thịt gia cầm, trứng gia cầm tăng nhẹ do nhu cầu thị trường dịp tết nguyên đán đối với những mặt hàng này gia tăng đáng kể, giá lợn hơi trong tỉnh vẫn ở mức thấp do nguồn cung thịt lợn đã ổn định do nghành nông nghiệp đã đẩy mạnh công tác tái đàn, đồng thời dịch tả lợn Châu Phi cũng đã được kiểm soát chặt. Vào những ngày đầu tháng 3/2021 giá lợn hơi tại trại dao động từ 54.000 – 58.000 đồng/kg, thịt lợn bán lẻ tại chợ có giá 105.000 đồng/kg ba chỉ rút xương, 100.000 đồng/kg thịt nạc vai và thịt nạc mông, 105.000 đồng/kg thịt thăn. Giá cả các mặt hàng thủy hải sản trong tỉnh như: tôm, mực, cá nước mặn… cũng biến động nhẹ, có xu hướng tăng dần vào những ngày cuối tháng 3 do nhu cầu tiêu thụ mặt hàng này bắt đầu tăng do sắp bước vào hè.

Một số nhận định, dự báo giá cả và nhu cầu tiêu thụ:

Dự báo giá thịt lợn hơi sẽ vẫn giữ ở mức thấp và giá có thể sẽ tăng nhẹ lên mức 57.000 – 60.000 đồng/kg vào những tháng quý II/2022 do giá xăng dầu tăng cao khiến chi phí sản xuất, vận chuyển tăng. Thịt trâu, bò ổn định giá và có thể tăng nhẹ vào đầu tháng 4/2022. Các tháng tới giá sản phẩm gia cầm và trứng sẽ duy trì mức ổn định. Các mặt hàng thủy hải sản giá bắt đầu tăng nhanh khi bước vào những tháng giữa quý II/2022.

Nhu cầu thị trường thịt lợn hơi trong và ngoài tỉnh cũng vẫn sẽ duy trì ở mức ổn định và có thể tăng nhẹ vào quý II/2022. Các sản phẩm thịt khác như: thịt trâu, thị bò, thịt gia cầm, trứng gia cầm…vẫn sẽ duy trì mức ổn định theo giá chung cả nước. Sản phẩm thịt lợn, thịt gia cầm của các trang trại nuôi liên kết tiêu thụ với công ty CP, Phú Gía… có khả năng cao có thể xuất khẩu sang các thị trường có nhu cầu tiêu thụ lớn nhưng không đòi hỏi quá cao về chất lượng thịt như: Trung Quốc, Hàn Quốc… và một số nước khác ở Đông Nam Á.

  1. Sản phẩm Tre, luồng, vầu

Tại thị trường trong nước ghi nhận từ đầu năm 2022 đến nay giá cá các sản phẩm tre, luồng, vầu có xu hướng giảm nhẹ do nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm làm từ vật liệu này có xu hướng giảm nhẹ do dịch bệnh và biến động chính trị tại một số nước thị trường châu Âu. Tại thị trường trong tỉnh, ghi nhận tại huyện Quan Sơn (là một trong những địa phương có sản lượng tre, luồng lớn nhất cả tỉnh) Trước đây, cây luồng được thương lái thu mua khoảng 10.000 đồng/10 kg, thế nhưng nay chỉ còn 7.000 – 8.000 đồng/10 kg. Cây vầu giá thu mua giảm từ 230.000 đồng xuống còn 180.000 đồng/100 kg. Do ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19, các doanh nghiệp, công ty trên cả nước đã giảm nhập hàng lâm sản từ cơ sở.

Một số nhận định, dự báo giá cả và nhu cầu tiêu thụ:

Tình hình chiến sự tại Ukraine vẫn diến biến vô cùng phức tạp và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, giá xăng dầu tăng cao dẫn đến tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động. Người dân tại các nước là thị trường chính xuất khẩu của các sản phẩm làm từ tre, vầu… bắt đầu thắt giảm chi tiêu dẫn đến nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm làm từ tre, vầu… giảm mạnh. Thậm chí các thị trường đang có chiến sự căng thẳng như Ukraine, Nga… có thể bị gián đoạn một thời gian dài do lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Nga. Tại thị trường trong và ngoài tỉnh dự báo giá cả các mặt hàng tre, luồng có thể giảm nhẹ do ảnh hưởng bởi dịch bệnh và tình hình chung của thế giới. Tuy nhiên giá có thể phục hồi vào những tháng tiếp theo nếu giá xăng dầu vẫn tăng cao như hiện nay dẫn đến chi phi sản xuất, vận chuyển tăng cao.

  1. Gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ

Trong năm vừa qua, sự tiếp nối có hiệu lực của các hiệp định thương mại tự do như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-châu Âu (EVFTA), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Vương quốc Anh (UKVFTA), Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã tạo điều kiện cho các phân ngành của nông nghiệp Việt Nam phát triển, thêm nhiều lợi thế trong tiếp cận các thị trường khó tính, cũng như gia tăng sức cạnh tranh đối với nhiều mặt hàng cùng loại của các quốc gia khác. Trong những ngành hàng này, ngành chế biến và xuất khẩu gỗ cũng không ngoại lệ. Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, trong những tháng đầu năm 2022, hầu hết các mặt hàng đồ nội thất bằng gỗ xuất khẩu vào thị trường Anh đều tăng mạnh. Dẫn đầu là mặt hàng đồ nội thất phòng khách và phòng ăn. Tiếp theo là mặt hàng đồ nội thất phòng ngủ, ghế khung gỗ…Tại thị trường trong tỉnh giá nguyên liệu đầu vào vẫn giữ mức ổn định và có thể tăng nhẹ do giá xăng dầu tăng cao. Các mặt hàng làm từ gỗ như: bàn, ghế, tấm ép… vẫn giữ giá ở mức ổn định.

Một số nhận định, dự báo giá cả và nhu cầu tiêu thụ:

Theo diễn biến ứng phó dịch bệnh COVID-19 của các quốc gia trên thế giới, các chuyên gia kinh tế dự báo kinh tế toàn cầu sẽ dần phục hồi, tăng trưởng trở lại trong năm 2022. Nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm từ gỗ của các quốc gia trên thế giới tăng lên, vốn FDI vào Việt Nam cũng ngày càng tăng, cộng với sự chủ động về công nghệ sản xuất và nguyên liệu gỗ đầu vào sẽ là động lực cho hoạt động chế biến, xuất khẩu gỗ Việt Nam. Tuy nhiên nghành chế biến và xuất khẩu gỗ của nước ta vẫn sẽ gặp phải những khó khăn nhất định. Một khó khăn lớn nhất trong năm 2021 được dự báo có thể kéo dài đến hết quý 1/2022 là tình trạng thiếu tàu vận tải biển, thiếu container, giá cước phí vận tải đường biển tăng quá cao dẫn tới đứt gãy chuỗi cung ứng hoàng hóa đầu vào và đầu ra của các doanh nghiệp. Tại thị trường trong tỉnh nhu cầu tiêu thụ gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ có thể sẽ tăng cao do các hoạt động sản xuất dần đi vào hoạt động bình thường sau đại dịch Covid-19 kết hợp với tình hình giá căng dầu tăng mạnh như hiện tại dẫn đến giá các mặt hàng làm từ gỗ có thể tăng nhẹ trong các tháng tới đây.

BẢNG THAM KHẢO GIÁ CÁC SẢN PHẨM NÔNG, LÂM, THỦY SẢN TÍNH ĐẾN NGÀY 25/03/2022

                                                                                            (ĐVT: 1000 VNĐ)

  SẢN PHẨM NÔNG NGHIỆP ĐVT GIÁ THÁNG 1 GIÁ THÁNG 2 GIÁ THÁNG 3 GIÁ TB CẢ TỈNH GIÁ TB CẢ NƯỚC
I Sản phẩm thủy, hải sản            
1 Ngao Kg ( bán lẻ) 22 20 25 22.3 22
2 Cua bể Kg ( bán lẻ) 350 360 370 360.0 380.5
3 Cua đồng Kg ( bán lẻ) 15 16 15 15.3 15
4 Cá Rô Phi Kg ( bán lẻ) 25 30 35 30.0 29.5
6 Cá Thu tươi Kg ( bán lẻ) 185 190 210 195.0 185
7 Ghẹ đỏ Kg ( bán lẻ) 400 410 400 403.3 405
8 Cá chim trắng nước ngọt Kg ( bán lẻ) 40 45 50 45.0 41.2
9 Cá chép Kg ( bán lẻ) 55 60 60 58.3 56.5
10 Mực trứng Kg ( bán lẻ) 200 210 210 206.7 202.8
11 Tôm Sú Kg ( bán lẻ) 210 220 225 218.3 215.4
II Sản phẩm chăn nuôi            
1 Gà ta Kg ( bán lẻ) 110 115 110 111.7 112
2 Gà công nghiệp sống đã làm sẵn Kg ( bán lẻ) 75 75 70 73.3  

72.5

3 Vịt sống Kg ( bán lẻ) 50 65 65 60.0 58.9
4 Thịt bò Kg ( bán lẻ) 230 250 250 243.3 245.5
5 Thịt lợn hơi Kg 54 55 54 54.3 55
6 Trứng gà ta Quả 3 3 3.3 3.1 3.2
7 Trứng gà công nghiệp Quả 3 2.7 2.5 2.7 3
8 Trứng vịt thường Quả 3 3 3 3.0 3
III Sản phẩm trồng trọt            
  Sản phẩm cây có hạt            
1 Gạo Si Kg ( bán lẻ) 13 13 14 13.3 13.5
2 Gạo Quy Năm Kg ( bán lẻ) 10 11 14 11.7 11.5
3 Gạo Tám Thơm Kg ( bán lẻ) 18 18 19 18.3 18
4 Gạo Khang Dân Kg ( bán lẻ) 11 12 12 11.7 11.2
5 Gạo Bắc Thơm Kg ( bán lẻ) 17 17 17 17.0 17.1
6 Gạo nếp cái hoa vàng Kg ( bán lẻ) 35 35 35 35.0 33.6
7 Ngô nếp Chục 35 40 40 38.3 40
8 Ngô ngọt Chục 35 35 36 35.3 34.5
9 Khoai lang vàng Kg ( bán lẻ) 25 30 30 28.3 26.5
10 Đậu tương Kg ( bán lẻ) 25 25 25 25.0 25
11 Đậu đen Kg ( bán lẻ) 38 40 40 39.3 39
12 Lạc Kg ( bán lẻ) 55 45 55 51.7 50.5
  Sản phẩm cây ăn quả            
1 Cam Sành Kg ( bán lẻ) 30 35 40 35.0 34.5
2 Dưa hấu Kg ( bán lẻ) 10 13 15 12.7 11.7
3 Ổi Kg ( bán lẻ) 15 20 20 18.3 17.1
4 Xoài Kg ( bán lẻ) 23 23 23 23.0 22.3
5 Dứa gai Kg ( bán lẻ) 10 12 12 11.3 10.5
6 Thanh long Kg ( bán lẻ) 30 30 30 30.0 32.3
7 Kg ( bán lẻ) 40 35 40 38.3 36.9
  Sản phẩm Rau, củ đậu các loại            
1 Hành khô Kg ( bán lẻ) 35 40 40 38.3 37.7
2 Tỏi Kg ( bán lẻ) 30 35 36 33.7 33.2
3 Gừng Kg ( bán lẻ) 40 42 50 44.0 46.1
4 Nghệ Kg ( bán lẻ) 22 20 24 22.0 21.5
5 Xả Kg ( bán lẻ) 20 20 22 20.7 19.8
6 Dưa chuột Kg ( bán lẻ 12 14 15 13.7 12
7 Cà chua Kg ( bán lẻ) 15 16 18 16.3 15.2
8 Cà rốt Kg ( bán lẻ) 15 15 18 16.0 16.3
9 Hành tây Kg ( bán lẻ) 30 30 31 30.3 30
10 Khoai sọ Kg ( bán lẻ) 30 30 32 30.7 31.5
11 Khoai tây Kg ( bán lẻ) 18 22 23 21.0 21.3
12 Bắp cải Kg ( bán lẻ) 14 15 16 15.0 12.5
13 Chanh quả Kg ( bán lẻ) 20 20 17 19.0 17.5
14 Rau cải chíp Kg ( bán lẻ) 15 15 15 15.0 15.5
15 Củ cải Kg ( bán lẻ) 15 15 16 15.3 14.5
  Sản phẩm tre, luồng, vầu            
1 Luồng Kg ( bán lẻ) 1.5 1.6 1.6 1.56 1.65
2 Vầu Kg ( bán lẻ) 4 4 4 4 4.22
  Gỗ và các sản phẩm từ gỗ            
  Gỗ keo non M3 (bán buôn) 496 501 499 498.66 502.78
  Gỗ keo trung bình M3 (bán buôn) 1150 1100 1150 1133.33 1195.23
  Gỗ keo già M3 (bán buôn) 4500 4700 4500 4566.66 5068.55

Mạnh Tùng

Trạm Kết Nối Cung Cầu và Hội chợ triển lãm- Trung tâm tư vấn quy hoạch Thị trường và chiến lược PTNN

Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở xã Hoằng Xuân, huyện Hoằng Hóa

Hoằng Xuân là xã vùng màu ven sông Mã, có diện tích đất tự nhiên 1346,02 ha, là xã có điều kiện tự nhiên rộng lớn đa dạng, giáp núi, giáp sông là một trong những xã phát triển về nông nghiệp chủ lực lâu đời của huyện Hoằng Hóa. Bởi vậy, những năm qua Hoằng Xuân luôn chú trọng phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa, nâng cao chuỗi giá trị liên kết sản xuất gắn liền với xây dựng NTM thông qua việc phát triển các mô hình nông nghiệp hàng hóa đạt hiệu quả kinh tế cao.

(Cánh đồng ngô ngọt của xã Hoằng Xuân)

Thực hiện Nghị quyết 137 của HĐND huyện Hoằng Hoá ngày 19/7/2021 về việc “Ban hành cơ chế phát triển kinh tế xã hội nhiệm kỳ 2021-2026” định hướng phát triển nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch là một trong những chương trình trọng tâm trong giai đoạn tới. Xã đã sớm có các cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn như cơ chế tích tụ đất đai, dồn đổi ruộng đất; chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tập trung sản xuất hàng hóa nông nghiệp quy mô lớn và xây dựng thương hiệu, đầu ra ổn định để đáp ứng nhu cầu thị trường về nông sản và thực phẩm của xã hội; xây dựng nâng cấp kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất như hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng; áp dụng khoa học công nghệ, áp dụng cơ giới hóa trong các khâu sản xuất. Với lợi thế địa hình ven sông có lượng lớn đất phù sa màu mỡ, cũng như là nơi đầu nguồn tưới của vùng nên có điều kiện phát triển các loại cây trồng có gía trị kinh tế cao vào sản xuất, xã đã hình thành các vùng sản xuất tập trung với một số cây trồng chủ lực tạo ra sản phẩm hàng hóa lớn như vùng sản xuất lúa thương phẩm 230ha, vùng sản xuất cây ngô ngọt 95ha, ngoài ra còn có cây lạc 15 ha, cây dược liệu như cà gai leo, trinh nữ hoàng cung 2,5ha, cây gai xanh 15ha,… Hoằng Xuân cũng là xã đi đầu trong ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, xã đã chuyển đổi 6 ha đất lúa sang chuyên sản xuất các loại rau củ quả an toàn theo tiêu chuẩn Vietgap cơ bản đã được đầu tư nhà lưới, hệ thống tưới khoa học tiết kiệm. Sản phẩm rau an toàn đã được cung cấp cho hệ thống siêu thị, nhà hàng, cửa hàng thực phẩm sạch trên địa bàn thành phố.Nhờ xây dựng các vùng sản xuất tập trung nên các sản phẩm nông nghiệp của xã có thể đáp ứng được yêu cầu của các Công ty thu mua như cây ngô ngọt được Công ty CP xuất nhập khẩu Đồng Giao liên kết bao tiêu ổn định hơn 1000 tấn nguyên liệu hàng năm và được thu mua ngay tại ruộng để giảm chi phí công vận chuyển cho các hộ trồng và bảo quản nguyên liệu được tốt hơn. Sản phẩm được Công ty chế biến thành ngô ngọt đóng hộp và xuất khẩu đến những thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga…. Thu nhập bình quân của các hộ trồng ngô đạt 50-55 triệu đồng/ha đảm bảo thu nhập ổn định cho các hộ dân.

Về chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hiện nay xã có 112 mô hình trang trại, gia trại tổng hợp, có 11 mô hình được công nhận trang trại trong đó có trang trại lợn của anh Vũ Văn Lực, thôn Nga Phú 1 liên kết chăn nuôi cho Công ty Cổ phần CP với số lượng 1000 con lợn thịt. 3 trang trại nuôi gà thương phẩm với quy mô 1,5-2ha, số lượng 33.000 con. Còn lại là các trang trại, gia trại tổng hợp kết hợp cây lưu niên-cá- chăn nuôi, hoặc mô hình lúa-thủy sản-thủy cầm kết hợp.  Để đạt mục tiêu phát triển trong chăn nuôi xã đã quy hoạch và chuyển đổi diện tích đất 2 lúa sản xuất kém hiệu quả được gần 50ha sang phát triển kinh tế trang trại tổng hợp, thường xuyên đưa các lọai giống vật nuôi có hiệu quả cao vào sản xuất và tăng tổng đàn vật nuôi, các khu NTTS tập trung đảm bảo vệ sinh ATTP và VSMT, khuyến khích nhân dân không bỏ ruộng hoang, mà chuyển đổi sang nuôi trồng thuỷ sản phát triển các loại cá nước ngọt có năng suất giá trị cao như cá chình, ốc nhồi,… Tổng giá trị thu nhập hàng năm của các trang trại từ 500-700 triệu đồng, cá biệt có một số trang trại chăn nuôi quy mô lớn cho thu nhập 2-3 tỷ đồng/năm.

Trong quá trình sản xuất nông nghiệp của xã có vai trò không nhỏ của HTX DVNN Hoằng Xuân, HTX là cầu nối liên kết giữa nông dân và Doanh nghiệp, thực hiện tổ chức các khâu liên quan đến từng chu kỳ phát triển của cây trồng từ khâu cung ứng vật tư đầu vào như giống, phân bón, dịch vụ tưới tiêu, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho các hộ thành viên, đồng thời các thành viên cũng được triển khai chấp hành và thực hiện tốt các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ vì vậy không xảy ra hiện tượng phá vỡ hợp đồng liên kết, diện tích ký hợp đồng thu mua ổn định hàng năm. Góp phần thay đổi tập quán, ý thức sản xuất của người dân, loại  bỏ dần phương thức sản xuất nhỏ lẻ, tuân thủ hợp đồng tạo nên sự hợp tác lâu dài giữa người dân và Công ty đem lại thu nhập cao ổn định cho người dân. Trong chăn nuôi, việc chuyển đổi diện tích sản xuất kém hiệu quả sang chăn nuôi tập trung cho thấy hiệu quả kinh tế chuyển biến nâng cao rõ rệt, nhờ quy mô chăn nuôi lớn cùng quy trình chăn nuôi khép kín theo hướng an toàn đáp ứng nhu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm nên các sản phẩm được Công ty cam kết bao tiêu hoàn toàn. Những kết quả đáng ghi nhận trong lộ trình sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa của Hoằng Xuân đã tạo những bước chuyển dịch tích cực đối với nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân, các hộ sản xuất trên địa bàn xã. Thu nhập bình quân năm 2011 đạt 17 triệu đồng/người/năm đến năm 2021 đã nâng lên lên 53,5 triệu đồng/người/năm. Trong thời gian tới, định hướng sản xuất chủ lực của xã vẫn là tập trung gieo trồng cây ngô ngọt và mở rộng vùng sản xuất ngô ngọt đặc biệt với cây ngô đông đảm bảo an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn Vietgap lên 105 ha. Với lợi thế địa hình đồi rừng, xã cũng đã khuyến khích nhiều hộ phát triển các sản phẩm từ rừng như nuôi ong mật, gà đồi hay sản phẩm từ cây sim rừng cho hiệu quả kinh tế ổn định. Hiện tại sản phẩm rượu sim rừng Bảo An của xã đã được chứng nhận sản phẩm OCOP 3 sao năm 2020, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ sản xuất bởi xu hướng hiện nay của người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn các sản phẩm bản địa có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, chất lượng đảm bảo vệ sinh ATTP góp phần cùng chính quyền địa phương hoàn thành mục tiêu xã đạt an toàn VS thực phẩm

Hiệu quả của việc xây dựng nền nông nghiệp theo hướng hàng hóa trong sản xuất đã và đang được khẳng định. Hầu hết các mô hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã đang phát huy hiệu quả, góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và hình thành các vùng sản xuất, chăn nuôi tập trung. Vì vậy, năng suất chất lượng của các sản phẩm nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất, giá trị hàng hóa, thu nhập, cải thiện đời sống của người nông dân, qua đó, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội địa phương./.

Phương Thuý

Trạm Kết Nối Cung Cầu và Hội chợ triển lãm- Trung tâm tư vấn quy hoạch Thị trường và chiến lược PTNN

Hiệu quả từ liên kết sản xuất khoai môn chỉ tím ở xã Dân lý, huyện Triệu Sơn

Nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất nông sản hàng hóa, xã Dân Lý (huyện Triệu Sơn) đã tạo điều kiện để ông Tô Quang Định đã tích tụ 6,2 ha đất nông nghiệp. Trên diện tích này, gia đình ông đã liên kết với Công ty Phân bón Sông Mã triển khai mô hình trồng cây khoai môn chỉ tím, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với trồng lúa và mở hướng phát triển sản xuất mới cho địa phương.

Cây khoai môn chỉ tím có mặt ở nhiều tiểu vùng sinh thái trong cả nước, như: Đà Lạt, Trà Vinh, An Giang, Đồng Tháp,… Sản phẩm của cây khoai môn chỉ tím được sử dụng trong chế biến, nhất là làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thực phẩm… Ở tỉnh Thanh Hóa, trước đây chủ yếu trồng khoai môn bản địa, diện tích sản xuất nhỏ lẻ, không tập trung.

 Việc liên kết sản xuất được thực hiện theo phương thức: Công ty CP Phân bón Sông Mã cung cấp giống khoai môn chỉ tím, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và trực tiếp hướng dẫn, chuyển giao khoa học – kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch cho người dân. Đồng thời, chịu trách nhiệm thu mua toàn bộ sản phẩm cho bà con nông dân. Gia đình ông trực tiếp thực hiện toàn bộ quy trình sản xuất, thu hoạch và sơ chế sản phẩm theo yêu cầu của doanh nghiệp trước khi xuất bán.

Trong suốt quá trình canh tác cây khoai môn chỉ tím, cần chú ý một số biện pháp sau: Kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hoạch,…

Khi cây khoai môn đã mọc chồi lên mặt đất lúc này cần tiến hành xới xáo nhẹ nhàng, đồng thời kết hợp với nhặt cỏ và dặm cây. Giai đoạn cây trồng đã có từ 3 – 4 lá thì làm cỏ đợt hai cần thực hiện kết hợp cùng với vun gốc, bón thúc và vét luống nhẹ nhàng. Thời điểm cây đã có từ 5 – 6 lá cần làm cỏ đợt ba có kết hợp vón bón thúc để cung cấp thêm dinh dưỡng cho cây. Bên cạnh đó việc vét rãnh, lấy đất phủ lên vị trí mặt luống và rải phân cần tiến hành.

Đối với những vùng chủ động được nguồn nước, sau khi trồng khoai môn, bạn nên tưới nước giữ ẩm để cây nảy mầm đồng đều. Giai đoạn cây cần nước nhất là khi cây được 5 – 6 lá, lúc này mà cây không được cung cấp nước tưới đầy đủ thì sẽ ảnh hưởng lớn đến năng suất thu được. Ngoài ra, cây cũng cần nhiều phân hữu cơ, phân đạo, kali, phốt pho… Tùy tình trạng cây mà bổ sung phân bón phù hợp:

Cây khoai môn khi trồng thường đối diện với một số bệnh hại như bệnh sương mai, bệnh khảm lá, sâu khoang, nhện đỏ, rệp bông,… Bởi thế, chú ý chăm sóc cây trồng đúng cách, thường xuyên kiểm tra để phát triển tình trạng bệnh sớm nhất. Lúc đó việc sử dụng thuốc trừ sâu chuyên dụng, đồng thời loại bỏ những cây nhiễm bệnh quá nặng để bảo vệ cho diện tích canh tác tốt nhất.

 Về thu hoạch, bảo quản tùy vào giống và kỹ thuật trồng cũng như chăm sóc khoai môn mà thời gian thu hoạch khác nhau. Thông thường mỗi lứa khoai mất 10 – 12 tháng. Thu hoạch củ xong bạn không cần rửa mà chỉ cần giũ để loại bỏ đất trên củ rồi bảo quản nơi thoáng mát.

Vùng sản xuất khoai môn chỉ tím, xã Dân Lý, huyện Triệu Sơn

Để diện tích trồng khoai môn chỉ tím sinh trưởng, phát triển tốt, hiệu quả kinh tế cao, gia đình ông đã thực hiện đúng quy trình sản xuất theo hướng dẫn của công ty, nên năng suất bình quân 40 tấn/ha/năm (mỗi năm 2 vụ). Nếu xuất bán với giá như hiện nay (từ 25-30nghìn đồng/kg), có thể lãi khoảng 300 triệu đồng/ha/năm. Xét về hiệu quả kinh tế, cây khoai môn chỉ tím cho hiệu quả kinh tế cao và được sản xuất theo hợp đồng liên kết tiêu thụ toàn bộ sản phẩm, nên gia đình ông yên tâm sản xuất và mong muốn được tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất vào những vụ tiếp theo.

Theo ông Định, đây là mặt hang mà nhu cầu thị trường tại các nước Ấn Độ, Trung Quốc và khu vực Trung Đông rất cao. Với việc sản xuất phải thích ứng với tình hình dịch bệnh, ông và Công ty Phân bón Sông Mã đã tính đến phương án thuê nhà kho ngay tại tỉnh Thanh Hóa để bảo quản hàng. Năm nay, nếu dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, chúng tôi sẽ liên kết với một đơn vị trong tỉnh để bảo quản sản phẩm và tìm thời điểm thích hợp để xuất vào Sài gòn cho các đối tác.

Chuỗi liên kết giá trị gắn sản xuất với thị trường mới này bước đầu đạt hiệu quả khá trong đó doanh nghiệp giữ vai trò chủ đạo; gợi mở hướng phát triển mới ở vùng đất thuần nông này, nhất là trong điều kiện người lao động địa phương đang có xu hướng “ly nông” chuyển sang làm công nhân tại các doanh nghiệp hoặc làm các dịch vụ khác đang phát triển mạnh ở địa phương có thu nhập cao và ổn định hơn so với sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên đây là giống cây trồng mới nên ngành chức năng, chính quyền địa phương, doanh nghiệp, cần tiếp tục giám sát, quản lý chặt chẽ để bảo đảm an toàn trong quá trình sản xuất, phù hợp với quy hoạch chung, bảo vệ người nông dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và gia tăng nguồn thu cho người dân địa phương./.

Văn Lộc
Trạm Kết Nối Cung Cầu và Hội chợ triển lãm- Trung tâm tư vấn quy hoạch Thị trường và chiến lược PTNN

Hàng loạt giải pháp tiêu thụ nông sản trong mùa dịch của Bộ NN-PTNT

Nông dân Bắc Giang sơ chế vải thiều trước khi đem bán. Ảnh: Tùng Đinh.

Nông dân Bắc Giang sơ chế vải thiều trước khi đem bán. Ảnh: Tùng Đinh.

Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, để hỗ trợ các địa phương trong việc tiêu thụ nông sản (đặc biệt những địa phương có những nông sản đang chuẩn bị vào vụ thu hoạch), Bộ NN-PTNT tổ chức Hội nghị trực tuyến với các địa phương để bàn giải pháp thúc đẩy tiêu thụ nông sản trong điều kiện dịch Covid-19.

Bên cạnh đó, theo dõi, nắm bắt và tổng hợp thông tin, số liệu về giá cả, tình hình sản xuất và nguồn cung các mặt hàng nông sản tại địa phương trong nước, đặc biệt là các địa phương chuẩn bị vào vụ thu hoạch nông sản (vải, nhãn, thanh long, xoài, mít…), bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch Covid- 19.

Từ đó, kịp thời phối hợp với Bộ Công Thương và địa phương triển khai kế hoạch tiêu thụ tại Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên…

Đẩy mạnh tham gia các sàn thương mại điện tử uy tín như: Alibaba, Amazon, Sendo, Voso, Shopee,… chủ động tạo điều kiện cho thương nhân Trung Quốc được nhập cảnh, đàm phán thu mua vải thiều.

Với thị trường quốc tế, các đơn vị của Bộ đã đẩy mạnh đàm phán với các nước để kết nối, thúc đẩy xuất khẩu trái cây, thủy sản sang Trung Quốc, Thái Lan, EU,… tháo gỡ khó khăn, phòng vệ thương mại tại thị trường trọng điểm  như Mỹ, Trung Quốc.

Cụ thể, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản sẽ theo dõi, tổng hợp tiến độ thực hiện đầu tư các dự án lĩnh vực chế biến, bảo quản nông sản. Ngoài ra, xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án phát triển ngành chế biến rau quả giai đoạn 2021 – 2030. Tổ chức công bố trình độ và năng lực công nghệ chế biến một số ngành hàng nông sản.

Đối với hoạt động xúc tiến thương mại trong nước, Bộ NN-PTNT tiếp tục theo dõi, nắm bắt và tổng hợp thông tin, số liệu về giá cả, tình hình sản xuất và nguồn cung các mặt hàng nông sản tại các địa phương phục vụ chỉ đạo điều hành của Bộ, báo cáo Tổ điều hành Thị trường trong nước, Ban Chỉ đạo giá của Chính phủ.

Chủ động, tích cực phối hợp, hỗ trợ các các địa phương, ngành hàng triển khai các giải pháp thúc đẩy tiêu thụ nông sản trong điều kiện dịch Covid-19 hiện nay.

Để thúc đẩy xuất khẩu, Bộ sẽ chuẩn bị tổ chức các Hội thảo, diễn đàn thúc đẩy xuất khẩu, mở cửa thị trường, hỗ trợ thông tin doanh nghiệp xuất khẩu nông sản về các hiệp định thương mại, hướng dẫn doanh nghiệp, địa phương về thực thi chính sách, quy định của các thị trường xuất khẩu phù hợp với tình hình dịch Covid-19.

Bên cạnh đó, phối hợp chặt chẽ với các Tham tán thương mại của Việt Nam tại nước ngoài, hỗ trợ địa phương, doanh nghiệp xuất khẩu nông sản trong tình hình dịch Covid-19 hiện nay. Tổ chức phối hợp với Bộ Công Thương triển khai phương án điều hành nhập khẩu mặt hàng đường theo hạn ngạch thuế quan (HNTQ) năm 2021 theo cam kết quốc tế trong WTO.

Nguồn: Báo Nông nghiệp

Trồng dưa lê Kim Hoàng Hậu cho năng suất cao tại Viện Nông nghiệp

Bắt đầu từ tháng 2/2021 , Phòng Phân tích và Thí nghiệm thuộc Viện Nông nghiệp đã triển khai mô hình trồng dưa Kim Hoàng Hậu công nghệ cao ngay tại nhà lưới của trụ sở Viện.

Giống dưa lê Kim Hoàng Hậu có nguồn gốc từ Thái Lan được Phòng Phân tích và Thí nghiệm trồng thử nghiệm bằng phương pháp hữu cơ ở điều kiện nhà lưới. Qua quá trình khảo nghiệm cho thấy giống dưa sinh trưởng và phát triển tốt, phù hợp với điều kiện thời tiết của tỉnh Thanh Hóa.

Toàn cảnh nhà lưới trồng dưa lê Kim Hoàng Hậu của Viện Nông nghiệp

Thông thường, thời gian sinh trưởng của dưa Kim Hoàng Hậu và dưa lê hữu cơ dao động từ 75 – 80 ngày, nhưng nếu do tình hình thời tiết khắc nghiệt sẽ kéo dài tới 90 ngày. Do dưa phản ứng rất mạnh với ánh sáng nên với cường độ ánh sáng yếu, cây dưa sẽ sinh trưởng chậm. Ngoài ra, dưa còn ảnh hưởng bởi yếu tố thời tiết, nếu trong điều kiện thời tiết cực lạnh sẽ gây bất lợi lớn cho việc sinh trưởng, phát triển của dưa.

Chăm sóc dưa lê Kim Hoàng Hậu
Khi trồng trong nhà lưới, giống dưa lê Kim Hoàng Hậu có thể đậu trái đến 98%, có thể điều tiết được dinh dưỡng đầu vào để cho mật độ, cân nặng, cũng như hàm lượng đường của quả theo nhu cầu của thị trường. Đây chính là yếu tố sản xuất nông nghiệp công nghệ cao mà tỉnh đang hướng tới.
Thời gian trồng dưa thường kéo dài từ cuối tháng 2 đến khoảng đầu tháng 9 hàng năm. Do đó, mỗi năm có thể trồng từ 3 – 4 vụ dưa liên tục. Thu nhập đối với 500m2 dưa khoảng 25 – 30 triệu đồng/vụ, trung bình mỗi năm đạt khoảng 100 triệu đồng/500m2.
Dưa lê Kim Hoàng Hậu khi chín
Dưa Kim Hoàng Hậu là một loại dưa vỏ có màu vàng tươi hoặc nhạt, Khi dưa kim hoàng hậu mới cắt thì màu của vỏ dưa còn vàng nhạt để lâu thì chuyển sang màu vàng sậm hơn. Kích cỡ của một trái dưa kim hoàng hậu thường không to bằng dưa hấu hay như một số loại dưa khác. Trung bình mỗi trái nặng tầm 1 cân đến 1,5 cân mà thôi. Dưa vàng Kim Hoàng Hậu có hình oval, vỏ thuộc loại trơn, nhẵn, ít khi bị rạn sần. Dưa Hoàng Hậu được người tiêu dùng đánh giá ngọt hơn dưa hấu đỏ và dưa lê Hoàng kim. Hiện tại dưa Kim Hoàng Hậu được gieo trồng ở rất nhiều tỉnh thành và đều theo tiêu chuẩn của VietGap.

Giống như những loại hoa quả giàu giá trị dinh dưỡng khác, dưa Kim Hoàng Hậu cũng mang lại nhiều tác dụng tốt cho sức khỏe của chúng ta, cùng tìm hiểu xem đó là những tác dụng gì nhé!

  • Do bên trong dưa Kim Hoàng Hậu chất lycopene – chất có vai trò chống oxy hóa có chứa rất nhiều trong đó, nên dưa Kim Hoàng Hậu có tác dụng tốt trong việc phòng ngừa các bệnh về ung thư, đặc biệt là ung thư tiền liệt tuyến.
  • Chất arginine có chứa trong dưa Kim Hoàng Hậu giúp cho làm giảm lượng glucose có trong máu, giúp ích cho những người bị bệnh tiểu đường và những người mắc bệnh tim.
  • Lượng vitamin A dồi dào có trong dưa lê Hoàng Hậu giúp cho mắt bạn sẽ dáng và tốt hơn, giúp ngăn ngừa tình trạng thoái hóa điểm vàng.
  • Vitamin C có trong dưa lê Kim Hoàng Hậu giúp cho các vết thương được làm lành nhanh chóng, tăng cường được hệ miễn dịch.
  • Lượng chất xơ có trong dưa Hoàng Hậu giúp ích cho việc ngăn ngừa các bệnh về xương khớp như lão hóa xương. Đồng thời giúp cho tình trạng táo bón được cải thiện.
  • Chất beta- carotene có trong dưa hoàng hậu giúp cho ngăn ngừa nhiều bệnh mãn tính khi được kết hợp với vitamin C có trong nó.
  • Giúp điều hòa huyết áp nhờ vào lượng Kali có trong dưa hoàng hậu.
  • Tốt cho phụ nữ mang thai, và thai nhi
  • Nạp năng lượng cho ngày hè
  • Tốt cho làn da, giúp da được tươi sáng hơn nhờ lượng vitamin có trong dưa kim hoàng hậu.
Hiện tại, Phòng Phân tích và Thí nghiệm đang tích cực hoàn tất các bước để nghiệm thu, từng bước đưa giống, kĩ thuật trồng dưa lê Kim Hoàng Hậu cho bà con nông dân trên địa bàn tỉnh. Theo đánh giá, nếu chủ động được sản lượng, mẫu mã và đảm bảo an toàn sinh học thì giống dưa lê này sẽ có đầu ra ổn định, với giá bán cao hơn các loại dưa lê thông thường.
Trần Anh Đức