Phát triển hiệu quả và bền vững giá trị cây luồng xứ Thanh

Thanh Hóa là tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển rừng luồng với trữ lượng lớn, tập trung ở các huyện miền núi phía Tây của tỉnh. Tuy nhiên, việc phát triển cây luồng hiện nay vẫn chưa đáp ứng giá trị kinh tế và lợi ích của nó trong đời sống. Vì vậy, cần có các cơ chế, chính sách để khuyến khích phát triển rừng luồng theo hướng hiệu quả và bền vững, qua đó quảng bá tiềm năng, thế mạnh cũng như tạo cơ hội để nâng cao giá trị cây luồng.

Cây luồng – cây xóa đói, giảm nghèo

Luồng là cây đặc hữu của Thanh Hóa, được tỉnh quan tâm lập quy hoạch, gây trồng từ hàng chục năm trước. Cây luồng đã gắn bó với đời sống nhân dân qua các thập niên, đến nay vẫn giữ vai trò không nhỏ trong xóa đói, giảm nghèo, phục vụ đời sống sinh hoạt cho người dân các huyện miền núi và trung du.

Vào thập kỷ 70 của thế kỷ XX, tỉnh ta đã được cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi thư khen ngợi 5 lần và một lần được đón cố Thủ tướng về thăm phong trào trồng luồng tại xã Ngọc Liên, huyện Lương Ngọc (Ngọc Lặc ngày nay) vào năm 1969. Từ đó diện tích rừng luồng của tỉnh đã tăng lên từ 11.795 ha năm 1972 lên 50.000 ha năm 2000, đến nay là 78.657 ha; trong đó huyện Quan Hóa có 27.268,6 ha; Lang Chánh có 13.015,1 ha; Quan Sơn có 12.431,12 ha; Bá Thước có 11.119,73 ha;… Luồng Thanh Hóa chiếm 50% diện tích rừng luồng cả nước, phần lớn là rừng trồng thuần loài. Tính đến nay, trên 80% diện tích rừng luồng đã được giao lâu dài cho hộ dân chủ động quản lý, khai thác, có thu nhập từ nghề rừng.

Theo số liệu thống kê những năm gần đây, hàng năm tỉnh ta cung cấp ra thị trường khoảng 24 triệu cây/năm (trị giá khoảng 240 tỷ đồng) tương đương 0,55 triệu tấn. Tuy nhiên, năng suất này đang là con số khiêm tốn, nếu được quản lý, bảo vệ, chăm sóc thâm canh, khai thác đúng quy trình kỹ thuật, hàng năm có thể cung cấp ra thị trường khoảng 70 triệu cây luồng, tương đương 1,6 triệu tấn, tạm tính doanh thu từ bán luồng cây là 700 tỷ đồng/năm. Những năm gần đây, cây luồng đã được đưa vào chế biến công nghiệp làm ra nhiều sản phẩm có giá trị như: Đũa, tăm mành, ván sàn, đồ thủ công mỹ nghệ, là nguyên liệu cho sản xuất giấy sợi, phế liệu của cây luồng (mắt, gốc, cành, ngọn…) còn dùng để sản xuất than hoạt tính. Măng luồng là loại thực phẩm sạch, chứa nhiều dinh dưỡng và chất xơ được nhiều người ưa chuộng. Ngoài ra rừng luồng còn có giá trị phòng hộ đầu nguồn, chống xói mòn và lưu giữ khí cac-bon (khí nhà kính) bảo vệ môi trường.

Về Quan Hóa thăm rừng luồng lớn nhất tỉnh ta, anh Cao Văn Thụ ở bản Tân Sơn, xã Thanh Xuân, chia sẻ: “Gia đình tôi hiện trồng 15 ha rừng luồng với khoảng 3.000 gốc. Do được tập huấn cách trồng, chăm sóc, thường xuyên chặt tỉa, phát dọn vệ sinh nên rừng luồng của gia đình tôi luôn xanh tốt, mỗi năm cho thu nhập khoảng 300 triệu đồng”.

Cũng như anh Thụ, gia đình chị Lương Thị Nguyệt ở bản Sại, xã Phú Lệ có gần 7ha rừng luồng với 1.000 gốc. Chị Nguyệt cho hay: “Ngoài việc chăm sóc phát dọn tỉa cành, gia đình tôi còn thực hiện đúng kỹ thuật, bón phân cho gốc luồng mỗi năm 2 lần theo định kỳ. Vì vậy rừng luồng cứ thế sinh sôi phát triển, mỗi năm cho thu nhập khoảng 150 triệu”.

Chị Hà Thị Nga, phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, huyện Quan Hóa, cho biết: Toàn huyện có 27.268,6 ha, chiếm 34,32% tổng diện tích rừng luồng toàn tỉnh. Phần lớn diện tích rừng luồng thuộc quy hoạch rừng sản xuất và thuộc đất 02 của các hộ gia đình, cá nhân. Trên địa bàn có 23 công ty, HTX, cơ sở chế biến lâm sản chuyên thu mua và chế biến các mặt hàng sơ chế chủ yếu là đũa, giấy, vàng mã, ván sàn… Để thực hiện thâm canh phục tráng rừng luồng, huyện đã và đang phối hợp với ngành lâm nghiệp phổ biến, tuyên truyền chính sách hỗ trợ phát triển vùng luồng thâm canh; hướng dẫn các hộ đăng ký tham gia phục tráng rừng luồng; tập huấn kỹ thuật chăm sóc, bón phân phục tráng rừng luồng… Năm 2019, huyện chỉ đạo thâm canh phục tráng rừng luồng 1.800 ha ở 12 xã với 1.335 hộ tham gia. Đặc biệt, huyện đã có 2.369,6 ha rừng luồng với 545 hộ ở 4 xã: Thanh Xuân, Phú Xuân, Phú Sơn và Phú Lệ được cấp chứng nhận bảo vệ rừng FSC (được dùng cho các nhà quản lý rừng hay những nhà sản xuất các sản phẩm từ rừng đảm bảo được tiêu chí về phát triển bền vững, cân bằng được các giá trị bảo vệ môi trường (rừng) với lợi ích xã hội của các bên liên quan (nhà sản xuất, xã hội và người dân địa phương). Điều này giúp cho cây luồng của huyện đứng vững trên thị trường vì được đảm bảo về tiêu chuẩn chất lượng cũng như giá cả, đầu ra cho sản phẩm.

Vượt qua khó khăn, tìm hướng đi cho cây luồng

Thời gian qua, việc trồng, chăm sóc và khai thác sử dụng cây luồng còn rất nhiều hạn chế đã làm ảnh hưởng không ít đến chất lượng rừng luồng. Một số diện tích luồng hiện có đã và đang bị suy thoái mạnh, năng suất và chất lượng giảm sút, chế biến chưa hiệu quả, giá cả bấp bênh, các sản phẩm còn nghèo nàn… Nguyên nhân do luồng là sản phẩm nhân dân tự trồng nên đã được hưởng chính sách thông thoáng trong khai thác, vận chuyển, thương mại, vì vậy việc quản lý của chính quyền, cơ quan chuyên môn rất hạn chế. Những khu vực chủ yếu do nhân dân tự trồng từ trước đến nay, trong đó một số diện tích trồng trên các điều kiện địa hình không phù hợp (cao, dốc, độ ẩm thấp), nên rừng luồng sinh trưởng phát triển rất kém. Thực tế, người dân chưa có thói quen trồng luồng thâm canh, chăm sóc rừng trồng chưa tốt, chưa chú trọng phòng trừ sâu bệnh, khai thác tự do, người trực tiếp khai thác chỉ quan tâm về tiền công khai thác, chủ rừng chỉ quan tâm về tiền bán luồng… nên năng suất, chất lượng rừng luồng còn thấp, thu nhập bình quân chỉ đạt khoảng 7–10 triệu đồng/ha/năm, tính bền vững thấp.

Bên cạnh đó, các cơ sở chế biến từ tre luồng đã hình thành nhưng chưa phát triển mạnh, chủ yếu là nhỏ, lẻ, chế biến nhóm sản phẩm truyền thống, chưa có cơ sở đủ mạnh đầu tư chế biến sản phẩm công nghệ cao. Tính gắn kết bền vững lâu dài giữa doanh nghiệp và hộ dân chưa cao, có đến 60% sản lượng luồng cây bán cho các tỉnh ngoài. Giá bán luồng cây còn thấp do tư thương bao vùng, ép giá, quyết định giá mua. Đường giao thông, đường vận chuyển ra bãi tập kết một số vùng chưa có, hoặc có cũng rất khó khăn nên khó bán luồng, giá bán rất rẻ, dẫn tới nhiều hộ dân chưa thiết tha chăm sóc rừng. Chưa có sự gắn kết giữa khoa học kỹ thuật với người dân, hoặc có nhưng mới ở phạm vi nhỏ lẻ. Đội ngũ khuyến lâm viên các huyện miền núi yếu và thiếu, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Sự quan tâm của các cơ quan chuyên môn chưa sâu rộng, mới ở quy mô xây dựng mô hình, chưa nhân rộng phổ biến mô hình. Yếu tố quan trọng là 92% diện tích rừng trồng tre luồng là của hộ gia đình, kéo theo chuỗi hệ thống các nhân tố chủ quan từ trồng, chăm sóc, khai thác chưa đúng quy trình kỹ thuật dẫn đến năng suất, chất lượng rừng luồng ngày càng suy giảm.

Ông Phạm Chí Dũng, Phó chi cục trưởng Chi cục Lâm nghiệp tỉnh, cho biết: UBND tỉnh đã phê duyệt Quy hoạch vùng thâm canh luồng tập trung tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 2016-2020; ban hành cơ chế chính sách khuyến khích thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2016-2020, nhằm phát huy hiệu quả kinh tế – xã hội của vùng luồng. Từ đó góp phần đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu kinh tế ở trung du, miền núi Thanh Hóa, tạo việc làm ổn định cho hàng ngàn hộ gia đình nông dân và xóa đói, giảm nghèo bền vững theo tinh thần Nghị quyết 30a của Chính phủ, bảo tồn nguồn gen, bảo vệ rừng đầu nguồn và bảo vệ môi trường sinh thái. Ngành lâm nghiệp cũng đã có công văn gửi các huyện trong quy hoạch vùng luồng thâm canh, tập trung chỉ đạo, đôn đốc hướng dẫn các hộ gia đình thực hiện kỹ thuật thâm canh phục tráng rừng luồng; nâng cấp, làm mới hệ thống đường lâm sinh; tổ chức tập huấn cho các hộ về kỹ thuật thâm canh phục tráng rừng luồng…

Hy vọng với những cơ chế chính sách và giải pháp trên, cây luồng có cơ sở để phát huy tiềm năng thế mạnh, trở thành cây xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi tỉnh ta.

Nguồn tin: Báo thanh hóa

Thanh Hóa đẩy mạnh xây dựng và thực hiện phương án quản lý rừng bền vững

Quản lý rừng bền vững là một bộ phận của phát triển bền vững, nghĩa là sự phát triển có hiệu quả về kinh tế, không gây tác hại đến môi trường sống (kể cả của người và các loài sinh vật) và có đóng góp thiết thực cho giải quyết các vấn đề xã hội cho hiện tại và tương lai. Phát triển bền vững là một yêu cầu cấp bách hiện nay của toàn thế giới, vì trong quá khứ và hiện tại, sự phát triển không bền vững đã và đang làm suy giảm nghiêm trọng tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường sống, đe dọa sự sống còn của chính con người…

Hiện nay, trên thế giới cũng như Việt Nam, quản lý rừng không bền vững đã và đang là nguyên nhân chủ yếu làm cho diện tích rừng ngày một giảm, năng suất và chất lượng rừng ngày càng kém, nhiều loài cây rừng và động vật hoang dã ngày càng ít đi hoặc tuyệt chủng. Môi trường sống bị đe dọa nghiêm trọng như lũ lụt, khô hạn, xói mòn đất ngày một gia tăng. Đời sống của người dân, nhất là ở các cộng đồng địa phương sống trong và gần rừng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Với việc phát triển rừng trồng nhanh chóng như hiện nay, nếu việc chọn loài cây trồng không phù hợp có thể làm xói mòn đất, rừng bị sâu bệnh, năng suất kém; không giải quyết tốt các vấn đề xã hội trong quản lý rừng sẽ dẫn đến khai thác trộm hoặc lấn chiếm đất rừng, ảnh hưởng đến khả năng tái sinh của rừng… Bên cạnh đó, Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU) đã ký kết Hiệp định Đối tác tự nguyện (VPA) về thực thi lâm luật, quản trị rừng và thương mại lâm sản (FLEGT) là bước ngoặt lịch sử của ngành lâm nghiệp Việt Nam nói chung và Thanh Hóa nói riêng. VPA nhằm mục đích đảm bảo gỗ và sản phẩm gỗ nhập khẩu vào châu Âu là hợp pháp và thúc đẩy quản lý rừng bền vững ở các nước xuất khẩu gỗ thông qua nâng cao hiệu lực pháp luật và năng lực quản lý điều hành.

Tỉnh Thanh Hóa hiện có 1.120.600 ha diện tích tự nhiên, trong đó diện tích rừng và đất lâm nghiệp 647.677 ha, chiếm hơn 53% diện tích chung của toàn tỉnh. Rừng tự nhiên là rừng phòng hộ và đặc dụng 246.000 ha, rừng sản xuất chủ yếu là rừng trồng 366.000 ha. Ngoài ra, Thanh Hóa còn là tỉnh có diện tích tre luồng lớn nhất cả nước, với 71.053 ha. Sản lượng khai thác gỗ những năm gần đây đạt 1.200.000 m3/năm, trong đó có khoảng 80% là gỗ keo lá tràm và keo Úc lai, đóng góp một phần không nhỏ cho xuất khẩu. Do đó, việc thực hiện quản lý rừng bền vững theo Thông tư số 28/2018/TT-BNNPTNT (gọi tắt là Thông tư 28) ngày 16-11-2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) là nội dung cấp bách.

Thực hiện Điều 27, Luật Lâm nghiệp số 16/2017/QH14 ngày 15-11-2017 của Quốc hội khóa XIV; Điều 87, Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16-11-2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp; Thông tư 28 về quản lý rừng bền vững và các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh, Sở NN&PTNT đã tổ chức hội nghị triển khai và ban hành các văn bản hướng dẫn xây dựng phương án quản lý rừng bền vững cho các chủ rừng trên địa bàn tỉnh, theo đó:

Nội dung phương án quản lý rừng bền vững: Sở NN&PTNT yêu cầu các chủ rừng tổ chức (các ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng; các đồn biên phòng và các công ty lâm nghiệp) căn cứ Điều 5, Điều 6, Điều 7 và Điều 9 và Phụ lục II Mẫu phương án quản lý rừng bền vững ban hành kèm theo Thông tư 28 để xây dựng phương án cho phù hợp với điều kiện của đơn vị. Chủ rừng tự xây dựng hoặc thuê đơn vị tư vấn xây dựng phương án quản lý rừng bền vững. Đối với các chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, nhóm hộ, Sở NN&PTNT khuyến khích các chủ rừng tự nguyện xây dựng hoặc liên kết xây dựng và thực hiện phương án quản lý rừng bền vững; nội dung hướng dẫn tại Phụ lục III kèm theo Thông tư 28.

Trình tự, thủ tục xây dựng, phê duyệt phương án quản lý rừng bền vững thực hiện theo quy định tại Điều 10, Điều 11 và Điều 12, Thông tư 28. Trong đó, Sở NN&PTNT quy định trình tự thực hiện như sau: Chủ rừng nộp 1 bộ hồ sơ đến Sở NN&PTNT để được kiểm tra, hướng dẫn chủ rừng hoàn thiện phương án và bổ sung hồ sơ (nếu thiếu). Sau khi nhận được hồ sơ hợp lệ, Sở NN&PTNT xem xét, lấy ý kiến các sở, ngành: Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương về nội dung phương án. Trường hợp nội dung phương án quản lý rừng bền vững đạt yêu cầu, Sở NN&PTNT trình UBND tỉnh phê duyệt phương án; trường hợp nội dung phương án chưa đạt yêu cầu, Sở NN&PTNT có thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho chủ rừng biết để bổ sung, hoàn thiện phương án trong thời hạn 5 ngày làm việc trước khi trình UBND tỉnh phê duyệt phương án. Hồ sơ phương án quản lý rừng bền vững gồm: Tờ trình của chủ rừng theo quy định tại Phụ lục VI, phương án theo quy định Phụ lục II; các loại bản đồ theo quy định tại Khoản 3, Điều 4, Thông tư 28.

Thời gian và kinh phí xây dựng phương án: Các chủ rừng tổ chức khẩn trương xác định lộ trình xây dựng và thực hiện phương án quản lý rừng bền vững; hoàn thiện phương án, trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt trong quý II-2020. Nguồn kinh phí xây dựng và thực hiện phương án do chủ rừng tự huy động từ nguồn vốn hợp pháp hoặc tìm kiếm các đối tác, nhà đầu tư trong lĩnh vực lâm nghiệp để hỗ trợ xây dựng phướng án quản lý rừng bền vững phù hợp với mục đích sử dụng rừng của từng chủ rừng. Ở những nơi được chi trả dịch vụ môi trường rừng chủ rừng được sử dụng nguồn kinh phí chi trả dịch vụ môi trường rừng theo quy định tại Điểm c, Khoản 3, Điều 70, Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16-11-2018 của Chính phủ.

Nhằm hỗ trợ xây dựng mô hình mẫu về quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn FSC, từ tháng 2 năm 2018 đến nay, thông qua Dự án hỗ trợ chuẩn bị sẵn sàng thực hiện REDD+ ở Việt Nam – giai đoạn 2 (Dự án FCPF-2) đã hỗ trợ Ban quản lý rừng phòng hộ Lang Chánh xây dựng và thực hiện phương án quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn FSC. Đến nay, phương án đã được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt. Đây là chủ rừng tổ chức đầu tiên trên địa bàn tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng phương án và đưa phương án quản lý rừng bền vững vào thực hiện. Kết quả này là tiền đề để các chủ rừng là tổ chức học tập, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện phương án quản lý rừng bền vững trên địa bàn tỉnh. Đồng thời trong thời gian tới, dự án sẽ tiếp tục hỗ trợ Sở NN&PTNT tổ chức khóa tập huấn chuyên đề về xây dựng phương án quản lý rừng bền vững cho các chủ rừng là tổ chức. Với những hỗ trợ tích cực của dự án đã và đang góp phần để việc triển khai xây dựng và thực hiện phương án quản lý rừng bền vững trên toàn tỉnh sẽ đạt được những kết quả khả quan.